Những di sản văn hóa 'lắng hồn núi sông ngàn năm'
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Hà Nội ngày nay vẫn giữ được nét cổ kính, thâm nghiêm rung động lòng người. Để làm nên bản sắc ấy không thể không kể đến những công trình mang đậm dấu ấn văn hóa, kiến trúc 'lắng hồn núi sông ngàn năm' của mảnh đất ngàn năm văn hiến, ai đi xa vẫn phải khắc khoải nhớ về...
Bài 1: Đền Hai Bà Trưng - Vẻ đẹp kinh đô xưa
Đền Hai Bà Trưng - Di tích Quốc gia đặc biệt thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội với lịch sử lâu đời không chỉ là niềm tự hào của người dân nơi đây mà còn của mọi người dân đất Việt; là địa điểm thăm quan du lịch tâm linh hấp dẫn đối với du khách trên mọi miền đất nước. Đồng thời, cũng là nơi "thẩm thấu" về lòng tự tôn dân tộc, giáo dục tinh thần yêu nước đối với thế hệ trẻ.
Đền Hai Bà Trưng còn là nơi lưu giữ nhiều di vật quý như: Gỗ, đá, đồng, sứ, giấy,…đặc biệt là 23 đạo sắc phong. Các di vật có niên đại tập trung vào triều Nguyễn như hoành phi, hương án, đại tự, câu đối, khám, kiệu, tượng thờ… được chạm khắc công phu, tinh xảo, với các đề tài trang trí: Rồng mây, hoa lá, văn triện, hổ phù…
Tương truyền, làng quê có nghề trồng dâu nuôi tằm, Hai Bà Trưng là hai chị em sinh đôi, người chị có tên là Trưng Trắc, em gái có tên Trưng Nhị. Từ nhỏ, Hai Bà được mẹ mời thầy giỏi trực tiếp dạy học nên khi lớn lên đều văn võ song toàn, có lòng thương dân và ý chí khởi nghĩa quật cường. Năm mười chín tuổi, bà Trưng Trắc kết hôn với ông Thi Sách, con quan Lạc tướng thành Chu Diên (vùng Sơn Tây ngày nay) cũng là người có ý chí quyết tâm chống giặc Đông Hán đô hộ.
Sau khi Hai Bà mất, nhân dân trong nước tôn kính lập đền thờ Hai Bà và các tướng lĩnh giỏi ở khắp mọi nơi. Theo thống kê, cả nước hiện có 103 địa điểm thờ phụng Hai Bà Trưng và 215 nơi thờ tự 246 vị tướng tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở các tỉnh, thành phố phía Bắc, ví như ở Hát Môn, Đồng Nhân, Phụng Công…
Tuy nhiên, đền thờ Hai Bà Trưng ở thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội là nơi đặc biệt nhất, bởi đây chính là quê hương, nơi sinh, nơi phất cờ khởi nghĩa và định đô của Hai Bà. Ngày nay, đền thờ Hai Bà Trưng ở thôn Hạ Lôi được đầu tư, tôn tạo khang trang, sạch đẹp, trở thành điểm đến văn hóa tâm linh đặc sắc…
Ông Phạm Trần Quang - Trưởng ban Quản lý di tích đền Hai Bà Trưng, thôn Hạ Lôi cho biết, ngày 9/12/2013, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định, xếp hạng đền là Di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia.
“Quần thể di tích gồm đền thờ Hai Bà Trưng; đền thờ các tướng lĩnh, tứ thân phụ mẫu của Hai Bà Trưng tọa lạc trên khu đất cao, rộng, thoáng, có diện tích gần 13ha, một mặt nhìn ra sông Hồng. Đây là nơi Hai Bà Trưng sinh ra, lớn lên, tế cờ khởi nghĩa giành thắng lợi, xưng vương và định đô. Phía sau đền thờ Hai Bà Trưng hiện vẫn còn dấu tích ngôi thành cổ Mê Linh, được đắp bằng đất, tương truyền trong thành có đặt cung điện của Trưng Vương.
Mỗi năm ở đây tổ chức 4 kỳ lễ hội: Từ mùng 4 đến mùng 10 tháng Giêng, chính hội là ngày mùng 6, nhằm kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng; ngày mùng 8 tháng 3 (âm lịch) là ngày giỗ Hai Bà Trưng; ngày mùng 1 tháng 8 là ngày sinh Hai Bà Trưng, ngày mùng 10 tháng 11 là ngày giỗ ông Thi Sách”, ông Quang giới thiệu.
Cũng theo ông Quang, nơi đây không đơn thuần là đền thờ Hai Bà Trưng, mà là quần thể di tích lịch sử, văn hóa tâm linh đặc sắc. Khu đền được xây dựng theo lối kiến trúc tiền Nhất, hậu Đinh, trong đó chữ Nhất là tòa nhà Tiền tế, chữ Đinh là tòa Trung tế và Hậu cung. Phải thừa nhận quy hoạch khu vực đền thờ ở đây đạt đến sự hoàn hảo, lớp lang.
Từ Đường kéo quân (tương truyền đây là nơi binh lính khởi nghĩa tập trung xuất trận đi đánh giặc vào năm Canh Tý - năm 40 sau công nguyên), bước qua cổng đến ngay khoảng sân rộng gọi là sân ngoài, ở giữa có cột đá thề khắc ghi lời thề của Hai Bà Trưng, bốn bồn hoa hình con dơi ở bốn góc, hai bên có hai hàng 18 cỗ voi đá tượng trưng cho voi của 18 đời Hùng Vương. Hai bên sân ngoài là khu vườn hoa cây cảnh tỏa bóng mát, non bộ, thảm cỏ, đường dạo và khu trồng cây lưu niệm…
Vào bên trong, du khách được chiêm ngưỡng một quần thể kiến trúc gồm: Tam tòa chính điện, phía bên tả (bên trái) Tam tòa chính điện có đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách và ông Thi Sách, đền thờ hơn 100 nam tướng của Hai Bà Trưng, cùng nhà bia ghi dấu tích hoạt động cách mạng của Tổng Bí thư Trường Chinh (Hộp thư bí mật); phía bên hữu (bên phải) Tam tòa chính điện là đền thờ thân phụ, thân mẫu và sư phụ, sư mẫu của Hai Bà Trưng, cùng đền thờ hơn 90 nữ tướng của Hai Bà Trưng.
Tất cả đều được dựng bằng gỗ lim, chạm trổ họa tiết hết sức sinh động, tinh tế. Phía trước Tam tòa chính điện là sân trên, sân trong, sân ngoài, tất cả đều được lát bằng đá phiến. Sân trong là sân nghi lễ, được lát đá theo hình chiếc chiếu hoa lớn ở giữa và hình hai chiếc chiếu hoa nhỏ ở hai bên. Hai bên sân trong là hai nhà Tả mạc và Hữu mạc bề thế. Trong khuôn viên khu đền thờ còn có hồ mắt voi, hồ tắm voi, lầu trống, suối vòi voi, ban thờ Thần Nông, lầu trống, hồ bán nguyệt.
Lịch sử ghi lại, Hai Bà Trưng chọn vị trí xây dựng “hành cung” ở xứ Đầu Voi, phía trên làm nơi “sở thiết triều”, là nơi bàn việc nước. Hành cung ấy nay là đền chính thờ Hai Bà Trưng, có hình dáng như tòa sen hóa thành chim phượng đang múa. Đền chính, nơi thờ Hai Bà: Trưng Trắc và Trưng Nhị được xây dựng uy nghi, với tam tòa gồm: Nhà tiền tế có 7 gian, hai dĩ xây tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, hai đầu đắp hình con đấu, hai bờ dải đắp hình phượng vũ. Phía trước nhà tiền tế có đôi voi đá tư thế quỳ chầu vào nhau. Hai cổng nhỏ với mái làm theo kiểu “chồng diêm”, mái uốn cong. Nối hai cổng nhỏ là hai bức “cánh phong”, phía trước có cột trụ biểu, đỉnh trụ hình trái giành, các ô lồng đèn đắp nổi tứ linh.
Bên trong là tòa trung tế, gồm 5 gian, 2 dĩ, xây tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp hình hoa chanh, chính giữa có hổ phù, hai mái kiểu chồng diêm… phía trước có lư hương bằng đá, có điện thờ chính và hai sập thờ sáu vị nữ tướng, những người nắm chính sự của triều đình (gọi là lục bộ nữ tướng). Bên trong cùng là tòa cung cấm (gọi là hậu cung), có tượng thờ Hai Bà Trưng ngự trên ngai rồng tỏa sáng lung linh. Hậu cung có 3 gian, 1 dĩ xây dọc hợp với trung tế thành kiến trúc tổng thể hình chữ “Đinh”. Bộ khung đỡ mái hậu cung gồm bốn bộ vì mang kết cấu “thượng giá chiêng hạ chồng rường”, “thượng giá chiêng hạ cốn”, trên cốn nách chạm hình chữ Thọ và hoa lá.
Đền thờ thân phụ, thân mẫu và sư phụ, sư mẫu Hai Bà Trưng xây dựng hình chữ “Đinh”, gồm tiền tế gồm 5 gian xây tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt (hai rồng chầu mặt trăng), bờ dải kiểu bờ đinh. Hậu cung gồm 1 gian, 2 dĩ. Có tượng thờ thân phụ, thân mẫu cùng sự phụ, sư mẫu Hai Bà Trưng và ban thờ Tam tòa thánh Mẫu theo tín ngưỡng Đạo Mẫu của dân tộc Việt. Đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách có kiến trúc chữ “Đinh”, gồm tiền tế và hậu cung, có tượng thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách và tượng thờ ông Thi Sách. Đền thờ các nữ tướng và nam tướng thời Hai Bà Trưng có dạng chữ “Nhất”, đều gồm 5 gian, hai bên trổ cửa hình chữ “Thọ”, có bài vị của hơn 90 vị nữ tướng và hơn 100 vị nam tướng.
Ông Phạm Trần Quang - Trưởng ban Quản lý Di tích cũng cho biết: “Việc quy hoạch, trùng tu, tôn tạo và mở rộng khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng đồng bộ, hoàn chỉnh xứng với tầm vóc di tích hứa hẹn nhiều thuận lợi cho sự phát triển, nằm chung trong sự phát triển của Mê Linh.
Người dân Mê Linh sẽ có điều kiện phát huy thế mạnh, đưa nơi đây thành điểm hẹn của du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Đến đây, du khách không chỉ được hòa mình vào hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của khu vực thờ tự, mà còn được chiêm ngưỡng các di tích còn được lưu giữ lại như: Đường kéo quân, Thành ống, Hành cung thiết triều xứ Đầu voi, Thành Cự triều (Thành Dền)…”.
Nguồn LĐTĐ: https://laodongthudo.vn/nhung-di-san-van-hoa-lang-hon-nui-song-ngan-nam-157936.html