Những điểm khác biệt về chuỗi cung ứng của Việt Nam

Trang Vietnam Briefing của hãng Dezan Shira & Associates (chuyên tư vấn hỗ trợ các nhà đầu tư trên khắp châu Á) ngày 30/3 đăng bài viết về sự hội nhập của Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu thông qua việc làm rõ sự khác biệt của chuỗi cung ứng của Việt Nam so với các nước khác.

Dây chuyền sản xuất công tơ điện tử. Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN

Dây chuyền sản xuất công tơ điện tử. Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN

Bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về lĩnh vực điện tử của Việt Nam, vai trò của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu với trọng tâm là lĩnh vực điện tử, cũng như thế mạnh và thách thức của lĩnh vực này.

Bài viết nêu bật những thế mạnh mà Việt Nam sở hữu, đầu tiên là tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao và ổn định, ở mức từ 6-7% trong thập kỷ qua. Thương mại quốc tế và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng tăng. Bất chấp đại dịch COVID-19, Việt Nam là một trong số ít nước ghi nhận mức tăng trưởng GDP dương, đạt 2,91% trong năm 2020. Thứ hai, Việt Nam là thành viên của một số hiệp định thương mại tự do (FTA). Đây là nhân tố thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh (EVFTA) và FTA giữa Anh-Việt Nam, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng GDP. Cuối cùng, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một số ưu đãi thu hút đầu tư và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam trở thành một phần của chuỗi giá trị toàn cầu. Chính phủ cũng áp dụng các ưu đãi bổ sung trong các chính sách lao động và công nghệ. Ngoài ra, chính phủ cũng hỗ trợ công tác nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy các hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến cũng như sản xuất các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông.

Đây sẽ là một trọng tâm chính khi Việt Nam tham gia sâu hơn vào công nghệ Internet vạn vật (IoT) và truyền thông 5G.

Bài viết đánh giá với việc chủ động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam đã từng bước trở thành nhà sản xuất và xuất khẩu hàng điện tử nổi bật, đứng thứ 12 trên thế giới và thứ 3 trong ASEAN về xuất khẩu hàng điện tử vào năm 2019. Nhiều yếu tố góp phần giúp Việt Nam chuyển đổi thành công từ một nước nông nghiệp thành một địa điểm quan trọng cho sản xuất điện tử ở Đông Nam Á như có vị trí gần Trung Quốc, chi phí cạnh tranh, lực lượng lao động đầy đủ, giá nhân công thấp và một số ưu đãi về thuế. Tuy nhiên, vì Việt Nam đặt mục tiêu cao hơn là trở thành điểm đến chi phí thấp cho lắp ráp hàng điện tử, cải tiến trong các lĩnh vực như công nghiệp phụ trợ, năng suất và công nghệ là rất quan trọng để Việt Nam tiến lên trong chuỗi giá trị.

Theo bài viết, ngành công nghiệp điện tử có thể được hệ thống thành 3 nhóm: 3C (máy tính, truyền thông và điện tử tiêu dùng), các cụm lắp ráp con và các thành phần bao gồm các thành phần điện tử. Năm 2019, Việt Nam ghi nhận tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng điện tử đạt 2.500 tỷ USD. Việt Nam có mức tăng trưởng mạnh mẽ, khoảng 20%, đối với các sản phẩm điện tử hoàn thiện, vượt Thái Lan và chỉ đứng sau Hàn Quốc về các mặt hàng lắp ráp xuất khẩu trong năm 2019. Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu vào cuối những năm 2000 và được coi là nhà cung cấp cấp thứ 2 trên thế giới cho các sản phẩm 3C. Nếu xem xét chuỗi cung ứng theo quốc gia, Việt Nam đứng thứ hai, sau Trung Quốc, về các sản phẩm điện tử xuất khẩu trong năm 2019. Đối với đồ điện tử, các thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam là Mỹ và Trung Quốc, tiếp theo là Hàn Quốc và Nhật Bản.

Bài viết nhận định nhóm thành phẩm 3C thống trị ngành công nghiệp điện tử Việt Nam, với thiết bị truyền thông và điện tử tiêu dùng dẫn đầu. Trong khi 3C thống trị lĩnh vực điện tử của Việt Nam, thì vai trò của Việt Nam trong chuỗi giá trị điện tử toàn cầu chỉ giới hạn ở vai trò là nhà tích hợp các thành phần. Chuỗi cung ứng có thể được chia nhỏ hơn nữa thành 3 phần gồm các hoạt động thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn. Việt Nam chủ yếu hội nhập ở phần trung nguồn với giá trị gia tăng thấp hơn, gồm các cụm lắp ráp con, chẳng hạn như màn hình và các bộ phận đặc biệt, các sản phẩm hoàn chỉnh như điện tử tiêu dùng, truyền thông và máy tính. Việt Nam cũng tham gia các hoạt động thượng nguồn, nhưng chủ yếu ở các sản phẩm giá trị gia tăng thấp như nhựa, thủy tinh và bao bì.

Bài viết cũng lưu ý Việt Nam vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa để hội nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời phải giải quyết một số thách thức về giao vận và cơ sở hạ tầng. Ngành giao vận vẫn mang tính chất nhỏ lẻ với hơn 3000 công ty giao vận, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung cấp dịch vụ giá trị thấp. Hàng hóa ở Việt Nam phải qua nhiều khâu trung gian từ khâu nguyên liệu thô đến khâu giao hàng, làm tăng chi phí giao dịch. Việt Nam cũng thiếu quy mô sản xuất và hạ tầng nhân sự, do đó khiến việc tăng hạng trong chuỗi giá trị trở nên khó khăn.

Dù sở hữu lực lượng lao động trẻ và khỏe, nhưng lao động Việt Nam lại có quy mô nhỏ hơn nhiều với 57,8 triệu lao động so với con số 778 triệu của Trung Quốc và 500 triệu của Ấn Độ. Thực tế này cản trở việc huy động lượng lớn lao động trong ngành điện tử. Ngoài ra, thiếu lao động có trình độ cũng là một thách thức, khiến các nhà sản xuất gặp khó khăn hơn trong tuyển dụng được lao động đủ khả năng thực hiện các quy trình phức tạp.

TTXVN

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/kinh-te/nhung-diemkhac-biet-ve-chuoi-cung-ung-cua-viet-nam-20210401182818133.htm