Những điểm mới của Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020

Trước yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đã được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 10- 6- 2020 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2021.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp có 13 nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản. Để bảo đảm tính thống nhất với quy định của pháp luật tố tụng và đáp ứng nhu cầu giám định của hoạt động tố tụng, phạm vi giám định tư pháp đã được sửa đổi theo hướng mở rộng đến cả giám định được trưng cầu, thực hiện ngay từ giai đoạn “khởi tố”, thay vì từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự như quy định hiện hành (khoản 1 Điều 2).

Để khắc phục tình trạng bất cập, rườm rà về TTHC trong quá trình bổ nhiệm giám định viên tư pháp đối với người đang là công chức, viên chức, sĩ quan trong lực lượng vũ trang, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung quy định: “Trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp đang là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan CAND, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng thì không cần có Phiếu lý lịch tư pháp” (khoản 3 Điều 8).

 Hội nghị trực tuyến triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp mới được Bộ Tư pháp tổ chức. (Ảnh: L.H)

Hội nghị trực tuyến triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp mới được Bộ Tư pháp tổ chức. (Ảnh: L.H)

Do có bổ sung tổ chức giám định công lập là Phòng giám định KTHS thuộc VKSND tối cao nên Luật có quy định “VKSND tối cao có trách nhiệm lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn để đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an bổ nhiệm giám định viên KTHS thuộc cơ quan mình” và tương tự như vậy, “VKSND tối cao xem xét, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an miễn nhiệm giám định viên tư pháp thuộc cơ quan mình cho bảo đảm nguyên tắc thẩm quyền quản lý về lĩnh vực giám định KTHS của Bộ Công an” (khoản 2 Điều 9 và khoản 3 Điều 10).

Góp phần bảo đảm điều kiện thuận lợi cho giám định viên trong quá trình hoạt động giám định, nhất là tham gia tố tụng với tư cách là người giám định tư pháp, Luật đã bổ sung quy định về cấp thẻ cho người được bổ nhiệm giám định viên tư pháp và thu hồi thẻ khi miễn nhiệm với nguyên tắc: người có thẩm quyền bổ nhiệm giám định viên tư pháp thì thẩm quyền cấp (cấp mới, cấp lại) thẻ giám định viên tư pháp; việc cấp thẻ giám định viên tư pháp được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về mẫu thẻ, trình tự, thủ tục cụ thể (khoản 4 Điều 9).

Giúp khắc phục bất cập về vấn đề miễn nhiệm trong quản lý đối với đội ngũ giám định viên tư pháp ở các Bộ, ngành và địa phương, Luật đã bổ sung một số trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp.

Để bảo đảm đáp ứng kịp thời yêu cầu giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử được thu thập ngày càng tăng mạnh trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án nói chung và các vụ án tham nhũng, kinh tế nói riêng, Luật đã có quy định về “Phòng giám định hình sự thuộc VKSND tối cao” (tại khoản 5 Điều 12). Đây là tổ chức giám định tư pháp công lập mới có tính chất đặc thù, được bổ sung vào hệ thống tổ chức giám định kỹ thuật hình sự.

Khắc phục bất cập của quy định hiện hành và phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan thuộc Chính phủ trong việc bảo đảm đáp ứng yêu cầu giám định của thực tiễn hoạt động tố tụng, Luật đã bổ sung cơ quan thuộc Chính phủ trong việc lựa chọn cá nhân, tổ chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật (Điều 18 và Điều 19) để ra quyết định công nhận, đăng tải, rà soát, cập nhật danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc trên cổng thông tin điện tử của cơ quan mình, đồng thời gửi Bộ Tư pháp để lập danh sách chung, tương tự như các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh về vấn đề này.

Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung quy định: Trong trường hợp đặc biệt, theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan thuộc Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn cấp tỉnh có trách nhiệm giới thiệu cá nhân, tổ chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện (quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này) thực hiện giám định ngoài danh sách đã được công bố ((khoản 2 Điều 20).

Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp cũng có những điểm mới trong quy định về quyền và nghĩa vụ của giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, người giám định tư pháp khi thực hiện giám định; Nghĩa vụ của người trưng cầu giám định; Quyền và nghĩa vụ của tổ chức được trưng cầu, thực hiện giám định tư pháp; Trưng cầu giám định tư pháp; Thời hạn giám định; Kết luận giám định; Hồ sơ giám định; Nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh đối với công tác giám định tư pháp và trách nhiệm của TAND tối cao, VKSND tối cao đối với công tác giám định tư pháp.

Với quan điểm tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp, bảo đảm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tố tụng; tập trung sửa đổi, bổ sung nhanh chóng, kịp thời những vấn đề mang tính cấp bách, cần thiết nhất để tháo gỡ vướng mắc, bất cập về thể chế, khắc phục ngay những tồn tại, khó khăn trong công tác giám định tư pháp phục vụ giải quyết án tham nhũng, kinh tế, không mở rộng sửa đổi sang các nội dung của Luật đã có tính ổn định, bền vững, 13 điểm sửa đổi, bổ sung của Luật này sẽ giúp tăng chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp trong thời gian tới….

Điệp Quyên

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.vn/nhung-diem-moi-cua-luat-giam-dinh-tu-phap-sua-doi-2020-221490.html