Những góp ý về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
Sáng ngày 17/2/2025, tại phiên thảo luận của Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, đồng chí Triệu Thị Ngọc Diễm - Đoàn Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Sóc Trăng đã có những góp ý về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Báo Sóc Trăng trân trọng đăng toàn văn phát biểu này.

Đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm phát biểu ý kiến tại phiên họp. Ảnh do tác giả cung cấp.
Kính thưa Chủ tọa kì họp!
Kính thưa Quốc hội!
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hiện nay đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống, tính tất yếu trong xu hướng chung của thời đại, qua nghiên cứu Tờ trình của Chính phủ cùng các văn bản có liên quan, tôi cơ bản nhất trí với Dự thảo.
Qua gợi ý của chủ tọa kì họp, tôi xin tham gia góp ý một số nội dung cụ thể sau đây:
VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ VÀ TÀI CHÍNH CHO TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CÔNG LẬP (Điều 4 của dự thảo)
- Vướng mắc chính hiện nay là cơ chế tự chủ tài chính chưa phù hợp với đặc thù của tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN) công lập, nhất là các đơn vị nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược. Tự chủ tài chính còn bị hiểu nhầm là tự đảm bảo nguồn thu, dẫn đến cắt giảm ngân sách nhà nước, ảnh hưởng tới nhân lực KH&CN. Cơ chế khoán chi chưa hiệu quả do rào cản hành chính và lo ngại rủi ro khi nghiên cứu không đạt kết quả.
- Do đó, tôi xin kiến nghị: (1) Cần có các nội dung và định hướng về cách thức xác định tự chủ, mô hình giao quyền tự chủ; không nói đến các khái niệm tự chủ chung chung. (2) Hoàn thiện cơ chế tự chủ: cần có quy định về tự chủ riêng, phân loại rõ các tổ chức KH&CN công lập theo chức năng để áp dụng các mức tự chủ phù hợp (tự chủ cao đối với đơn vị ứng dụng, mức hỗ trợ cao cho đơn vị nghiên cứu cơ bản). (3) Cải cách cơ chế khoán chi: Áp dụng cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng theo nguyên tắc quản lý rủi ro, đồng thời đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ cho nhóm nghiên cứu. (4) Tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước (NSNN): Đảm bảo ngân sách đầu tư cơ bản cho các tổ chức KH&CN công lập, kết hợp huy động vốn từ doanh nghiệp qua các cơ chế hợp tác công - tư (PPP).
VỀ KINH PHÍ ĐỂ TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ (Điều 7 Dự thảo)
Đề nghị điều chỉnh, bỏ cụm: “từ ngân sách nhà nước” trong tên gọi của Điều 7 và diễn đạt thành: “Về cấp kinhphí để triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ”. Vì khoản 2 của Điều 7 có nêu: quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia là các quỹ được hình thành từ nguồn kinh phí được cấp ban đầu, ...; và các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân và nguồn hợp pháp khác. Tức, ngoài nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, quỹ còn được hình thành từ nhiều nguồn huy động hợp pháp khác ngoài ngân sách, nên nếu để tên gọi của Điều 7 như vậy sẽ không đảm bảo bao hàm đủ nội dung.
3. MỘT SỐ NỘI DUNG KHÁC CÓ LIÊN QUAN DỰ THẢO, TÔI XIN KIẾN NGHỊ QUỐC HỘI QUAN TÂM VÀ CÓ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP, CỤ THỂ:
- Quan tâm đến việc xây dựng nền tảng đấu thầu điện tử chuyên biệt cho dự án KH-CN, CĐS vì các dự án này có tính rủi ro cao, yêu cầu kỹ thuật phức tạp.
- Áp dụng cơ chế "1 cửa điện tử" trong phê duyệt đề tài cấp quốc gia: Việc này rất cần thiết vì 5 lý do chính được thể hiện trong Dự thảo: (1) Rút ngắn thời gian phê duyệt (theo Điều 8 về khoán chi nhiệm vụ KH-CN); (2) Tăng tính minh bạch (phù hợp Điều 6 về quản lý tài chính); (3) Chuẩn hóa tiêu chí đánh giá (đáp ứng yêu cầu tại Điều 18 về thử nghiệm có kiểm soát); (4) Tối ưu nguồn lực quốc gia (theo Điều 12 về đầu tư hạ tầng số); (5) Hỗ trợ quyết định chiến lược (phù hợp tinh thần Điều 4 về liên kết viện nghiên cứu - doanh nghiệp).
- Thương mại hóa kết quả nghiên cứu KH&CN: Hiện nay, quy trình chuyển giao quyền sở hữu kết quả KH&CN còn rườm rà; thiếu cơ chế cho phép nhà khoa học tham gia trực tiếp điều hành doanh nghiệp từ kết quả nghiên cứu; chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp KH&CN chưa hiệu quả; từ đó còn lãng phí nhiều sản phẩm kết quả nghiên cứu KH&CN. Do đó, tôi xin đề xuất Dự thảo cần quan tâm các giải pháp như: Đơn giản hóa quy trình chuyển giao: Áp dụng cơ chế tự động chuyển giao quyền sở hữu kết quả KH&CN cho tổ chức chủ trì theo hình thức quyền ưu tiên nhận chuyển giao; cho phép nhà khoa học kiêm nhiệm chức vụ quản lý trong doanh nghiệp mà không phải từ bỏ vị trí trong viện nghiên cứu; các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp từ 5 - 10 năm đối với doanh nghiệp thương mại hóa kết quả KH&CN từ nguồn ngân sách nhà nước.
- Về thu hút và phát triển nguồn nhân lực KH&CN, nhất là nguồn nhân lực KH&CN trẻ.
Thực tế hiện nay ở 1 số địa phương, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đang thiếu và yếu, chưa tương xứng và ngang tầm nhiệm vụ, trong khi đó các nhiệm vụ cụ thể thể hiện trong Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có nhiều nhiệm vụ, giải pháp có tính chất “cách mạng”.
Việc xây dựng lực lượng nhân sự KH&CN trẻ, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo quốc gia không chỉ giải quyết rào cản nguồn lực, tận dụng tư duy đột phá, chống chảy máu chất xám mà còn góp phần đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và xây dựng hệ sinh thái bền vững.
Xuất phát từ thực trạng hiện nay, để con người thực sự vừa là giải pháp ưu tiên hàng đầu; cũng vừa là giải pháp mang tính quyết định, chiến lược cho nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tôi xin đề xuất Quốc hội cần quan tâm:
Một là, Chính sách đãi ngộ đặc biệt: như áp dụng cơ chế lương, thưởng và hỗ trợ đặc biệt cho các nhà khoa học đầu ngành tương đương khu vực.
Hai là, Triển khai các chương trình nghiên cứu trọng điểm thu hút các chuyên gia đầu ngành quốc tế.
Ba là, Triển khai các Chính sách đặc biệt dành cho đội ngũ các nhà khoa học trẻ lĩnh vực KHCN, điển hình như:
(1) Hỗ trợ tài chính và cơ hội nghiên cứu, ưu tiên kinh phí nghiên cứu cho trí thức trẻ, trong đó quy định tối thiểu 30% ngân sách nghiên cứu khoa học và công nghệ từ các quỹ KH&CN quốc gia và địa phương dành cho các nhà khoa học trẻ (
(2) Hỗ trợ tài chính khởi nghiệp đổi mới sáng tạo: Thông qua Quỹ hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trẻ, cung cấp vốn không hoàn lại hoặc vốn vay ưu đãi cho các dự án nghiên cứu, ứng dụng công nghệ của trí thức trẻ. Hỗ trợ chi phí đăng ký sở hữu trí tuệ: Miễn hoặc giảm 100% chi phí đăng ký bằng sáng chế, bản quyền cho các nhà khoa học trẻ.
(3) Chính sách khuyến khích tham gia nghiên cứu và ứng dụng: Ưu tiên chủ trì nhiệm vụ KH&CN với Quy định tỷ lệ tối thiểu 20% nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia và địa phương được giao cho các nhà khoa học trẻ chủ trì. Hỗ trợ tham gia các dự án lớn với yêu cầu các dự án KH&CN lớn phải dành ít nhất 15% kinh phí để tuyển dụng và đào tạo trí thức trẻ tham gia.
(4) Có cơ chế thử nghiệm linh hoạt cho phép các nhà khoa học trẻ thử nghiệm các ý tưởng, sản phẩm công nghệ mới trong môi trường kiểm soát rủi ro, với sự hỗ trợ từ các quỹ KH&CN.
(5) Có chính sách thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo: Hỗ trợ nghiên cứu công nghệ số trong đó ưu tiên kinh phí và cơ hội nghiên cứu cho các nhà khoa học trẻ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), blockchain, và công nghệ 5G/6G.