Những nhân tố giúp vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục nhiều nước Đông Nam Á

Các thỏa thuận vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ với Indonesia, Malaysia và Philippines đã trở thành tâm điểm chú ý gần đây, khi quốc gia này không phải là nguồn cung cấp vũ khí truyền thống của khu vực.

Máy bay chiến đấu tàng hình hai động cơ Kaan được phát triển bởi nhà sản xuất vũ khí nhà nước Turkish Aerospace Industries. Ảnh: Turkish Aerospace

Máy bay chiến đấu tàng hình hai động cơ Kaan được phát triển bởi nhà sản xuất vũ khí nhà nước Turkish Aerospace Industries. Ảnh: Turkish Aerospace

Từ thiết bị bay không người lái (UAV), tàu chiến hải quân, hệ thống tên lửa, đến máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm, Thổ Nhĩ Kỳ đang từng bước trở thành nhà cung cấp mới trong lĩnh vực quốc phòng đối với nhiều quốc gia Đông Nam Á - vốn trước đây thường phụ thuộc vào các hệ thống do phương Tây sản xuất.

Các nhà phân tích cho rằng sự hội tụ của nhiều yếu tố khiến vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ trở nên hấp dẫn.

Những yếu tố này bao gồm giá cả phải chăng, các nền tảng sẵn sàng chiến đấu đi kèm với các lợi ích bổ sung từ việc chuyển giao công nghệ, các chương trình hợp tác sản xuất và ít ràng buộc chính trị hơn khi Ankara tìm kiếm mở rộng thị trường.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cảnh báo về những thách thức tiềm ẩn như bảo trì và khả năng tương tác với các loại vũ khí khác.

Trả lời phỏng vấn Channel News Asia (CNA), ông Khairul Fahmi, một nhà phân tích quân sự tại Viện Nghiên cứu An ninh và Chiến lược có trụ sở tại Jakarta, nói rằng các nước Đông Nam Á nên xem sản phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ là một phần trong danh mục quốc phòng của họ, chứ không phải là sản phẩm thay thế duy nhất cho các nhà cung cấp khác.

“Thước đo thành công của sự hợp tác này không chỉ đơn thuần là số lượng vũ khí được mua, mà còn là khả năng sẵn sàng chiến đấu, tính khả dụng của hệ thống và khả năng vận hành và bảo trì lâu dài của chúng”, ông nói.

Tương tự, Jamil Ghani, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S Rajaratnam (RSIS) của Singapore, chia sẻ rằng quan hệ đối tác mới với Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không thể thay thế các nhà cung cấp truyền thống chỉ sau một đêm.

“Tuy nhiên, chúng làm tăng thêm một tầng phức tạp mới cho bối cảnh quốc phòng của khu vực - cả về năng lực lẫn phòng ngừa chiến lược”, Jamil, người có lĩnh vực nghiên cứu bao gồm chính sách đối ngoại và quốc phòng của Malaysia, cho biết.

Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng ảnh hưởng quốc phòng toàn cầu

Thổ Nhĩ Kỳ đang nhanh chóng mở rộng ảnh hưởng trong ngành công nghiệp vũ khí, với nhu cầu về các hệ thống quốc phòng của nước này - đặc biệt là UAV và tàu hải quân - đến từ các khách hàng lớn như Saudi Arabia, Qatar, Oman và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE).

Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm - viện nghiên cứu quốc tế độc lập chuyên nghiên cứu về xung đột, tỷ trọng vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ trong xuất khẩu toàn cầu đã tăng từ 0,8% từ năm 2015 đến năm 2019 lên 1,7% từ năm 2020 đến năm 2024.

Năm quốc gia xuất khẩu vũ khí lớn nhất từ năm 2020 đến năm 2024 là Mỹ, Pháp, Nga, Trung Quốc và Đức. Năm quốc gia này chiếm 72% tổng kim ngạch xuất khẩu vũ khí trên toàn cầu.

Ngành công nghiệp vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ đã có sự tăng trưởng bùng nổ trong thập kỷ qua, với kim ngạch xuất khẩu tăng vọt từ 1,6 tỷ USD năm 2013 lên mức kỷ lục 7,2 tỷ USD vào năm ngoái, khi nước này đặt mục tiêu trở thành một cường quốc quốc phòng toàn cầu và là đối tác quan trọng cho các quốc gia đang tìm cách đa dạng hóa hoạt động mua sắm quân sự.

Gần đây, các nước Đông Nam Á cũng tham gia vào danh sách khách hàng quốc phòng của Thổ Nhĩ Kỳ.

UAV Bayraktar TB2 do công ty Baykar của Thổ Nhĩ Kỳ phát triển.

UAV Bayraktar TB2 do công ty Baykar của Thổ Nhĩ Kỳ phát triển.

“Khách hàng lớn” Indonesia

Hồi tháng 2, Indonesia đã ký thỏa thuận mua 60 UAV Bayraktar TB3 và 9 UAV Akinci từ Baykar của Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm việc thành lập liên doanh với công ty Republikorp của Indonesia để xây dựng một nhà máy sản xuất UAV tại quần đảo này.

Đến tháng 7, Indonesia ký hợp đồng mua hai khinh hạm tàng hình lớp Istif từ tập đoàn đóng tàu TAIS của Thổ Nhĩ Kỳ.

Cũng trong tháng đó, Indonesia đã ký một hợp đồng triển khai để mua 48 máy bay chiến đấu KAAN của Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù chi tiết tài chính không được công bố, nhưng có thông tin cho rằng hợp đồng này có giá trị 10 tỷ USD, một trong những hợp đồng quốc phòng lớn nhất từ trước đến nay của Indonesia.

Tờ Jakarta Globe dẫn lời Bộ Quốc phòng Indonesia cho biết: "Indonesia sẽ không chỉ đảm bảo được trang thiết bị quân sự công nghệ cao mà còn có được những cơ hội đáng kể trong việc phát triển năng lực của ngành công nghiệp quốc phòng trong nước". KAAN là máy bay chiến đấu quốc gia đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ, đã hoàn thành chuyến bay đầu tiên vào tháng 2/2024, nhưng việc sản xuất hàng loạt dự kiến đến năm 2028 mới bắt đầu.

Bộ Quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ gọi KAAN là máy bay thế hệ thứ năm và cho biết nó sẽ được trang bị hai động cơ General Electric F-110, loại động cơ cũng được sử dụng trên máy bay phản lực Lockheed Martin F-16 thế hệ thứ tư.

Kế hoạch mua máy bay KAAN của Indonesia được bổ sung vào đơn đặt hàng 42 máy bay chiến đấu Rafale do Pháp sản xuất trị giá 8,1 tỷ USD, 24 máy bay chiến đấu của Boeing và 24 trực thăng vận tải của Lockheed Martin của Mỹ.

Vào tháng 8, các blog quốc phòng xôn xao với thông tin Indonesia triển khai hệ thống tên lửa đạn đạo KHAN – hệ thống có tầm bắn 280 km do nhà sản xuất vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ Roketsan phát triển - tại Tenggarong ở Đông Kalimantan – địa điểm xây dựng thủ đô tương lai Nusantara.

Động thái này khiến Indonesia trở thành quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á vận hành công khai một hệ thống đạn đạo chiến thuật hiện đại như vậy.

Theo lời Phó Tổng giám đốc Roketsan Murat Kurtulus hồi tháng 11/2022, Indonesia đã đặt hàng tên lửa KHAN vào thời điểm này và là lực lượng quân sự đầu tiên bên ngoài Thổ Nhĩ Kỳ sở hữu tên lửa.

Malaysia - Tập trung vào chuyển giao công nghệ

Chương trình Tàu tác chiến ven biển lô 2 của Malaysia hiện đang được tiến hành với ba tàu mới dựa trên thiết kế tàu hộ tống lớp Ada đang được đóng tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Theo khuôn khổ hợp tác giữa hai chính phủ, dự án do công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ STM quản lý và sẽ tích hợp nhiều hệ thống phòng thủ phụ của Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm pháo Aselsan SMASH 30mm và hệ thống tên lửa chống hạm Roketsan Atmaca.

Malaysia cũng đã mua UAV ANKA-S MALE, dự kiến sẽ được sử dụng tại đảo Labuan.

Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia, Mohamed Khaled Nordin, cho biết vào tháng 7 rằng họ đang nhắm mục tiêu chuyển giao công nghệ quốc phòng từ Thổ Nhĩ Kỳ tại một số khu vực đã được xác định vào cuối năm 2024.

Ông nói thêm rằng việc chuyển giao công nghệ là rất quan trọng để phát triển ngành công nghiệp quốc phòng của Malaysia, do các công ty trong nước dẫn đầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực như hệ thống quản lý, bảo trì, sửa chữa và đại tu vũ khí hải quân, và vận hành UAV.

Hệ thống tên lửa đạn đạo KHAN. Ảnh: Roketsan

Hệ thống tên lửa đạn đạo KHAN. Ảnh: Roketsan

Philippines - Tăng cường tác chiến đô thị

Philippines đã nhận được sáu trực thăng tấn công T129 ATAK do Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất.

Theo báo cáo, trực thăng này có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ, bao gồm chiến đấu và tấn công chính xác, với khả năng hoạt động cả ban ngày lẫn ban đêm trong điều kiện thời tiết bất lợi.

“Những trực thăng tấn công chuyên dụng này dự kiến sẽ nâng cao năng lực tác chiến của Không quân Philippines (PAF) và giải quyết khoảng cách năng lực được xác định trong chiến tranh đô thị”,đại diện PAF phát biểu vào năm 2024.

Jamil của RSIS lưu ý rằng các công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ hiện thường xuyên tham gia các triển lãm quốc phòng khu vực như Triển lãm và Hội nghị Dịch vụ Quốc phòng châu Á 2024 tại Kuala Lumpur, nơi các nhà sản xuất như Aselsan và STM trưng bày các hệ thống mới.

Động lực thúc đẩy sự thay đổi

Vậy đâu là động lực chính thúc đẩy các nước Đông Nam Á ngày càng mua sắm vũ khí và công nghệ từ Thổ Nhĩ Kỳ, vượt ra ngoài các nhà cung cấp truyền thống như Mỹ, Trung Quốc và Nga?

Abduld Rahman Yaakob - nghiên cứu viên tại Chương trình Đông Nam Á, Viện Lowy - cho biết trong trường hợp của Indonesia, lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ từ năm 1999 đến năm 2005 đã tác động đến tư duy chiến lược của quốc gia Đông Nam Á này.

“Đối với Lực lượng Vũ trang Indonesia, việc đa dạng hóa các nhà cung cấp vũ khí là một chiến lược quan trọng để đảm bảo họ có nguồn cung cấp vũ khí ổn định và an toàn, đồng thời không phụ thuộc vào bất kỳ thế lực cụ thể nào”, ông Rahman nói.

Ông nói thêm rằng việc tiếp cận công nghệ nước ngoài là một tiêu chí quan trọng khi Jakarta quyết định mua sắm vũ khí nào.

“Về lâu dài, Jakarta hy vọng sẽ tiếp cận được các công nghệ tiên tiến từ các đối tác bên ngoài để phát triển ngành công nghiệp quốc phòng của riêng mình. Trong trường hợp này, chúng tôi đã thấy Thổ Nhĩ Kỳ đồng ý chia sẻ công nghệ nền tảng quân sự với Indonesia, đặc biệt là trong lĩnh vực UAV và tên lửa”, ông nói.

Rahman cho biết tương tự, Thổ Nhĩ Kỳ đang hợp tác với Malaysia để chuyển giao công nghệ quân sự trong các lĩnh vực hệ thống quản lý cũng như bảo trì, sửa chữa và đại tu vũ khí hải quân.

Rahman lập luận rằng chi phí là một yếu tố quan trọng khác. Malaysia và Indonesia có ngân sách quốc phòng hạn chế và nhiều hệ thống vũ khí rất tốn kém.

Trong khi đó, chuyên gia Jamil cho biết các vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ - đặc biệt là UAV Bayraktar TB2, ước tính khoảng 5 triệu USD/chiếc, chỉ bằng 1/6 giá của MQ-9 Reaper của Mỹ.

Nhà phân tích quốc phòng Lam Choong Wah của Đại học Malaya cho biết Malaysia đang hướng đến Thổ Nhĩ Kỳ vì những lợi ích chính trị, viện dẫn tình bạn giữa Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim và Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan.

"Đối với Malaysia, còn có thêm yếu tố tin cậy chính trị và bản sắc tôn giáo chung, giúp củng cố mối quan hệ lâu dài. Mối quan hệ chính trị là lý do chính cho bất kỳ thỏa thuận vũ khí nào", ông nói với CNA.

Đồng tình với Lam, Khairul cho biết sự linh hoạt về chính trị mà Thổ Nhĩ Kỳ mang lại, không kèm theo nhiều ràng buộc chính trị, khiến nước này phù hợp hơn với mô hình chính sách đối ngoại mà nhiều quốc gia trong khu vực theo đuổi.

Thách thức đón đầu

Tuy nhiên, mặc dù việc mua vũ khí từ Thổ Nhĩ Kỳ có vẻ hấp dẫn, các nhà phân tích đã chỉ ra một số lo ngại chính có thể làm phức tạp quá trình tích hợp và sẵn sàng hoạt động lâu dài.

Nhà phân tích quân sự Khairul cho biết thách thức chính đối với Indonesia và Malaysia là việc tích hợp các nền tảng mới vào kho vũ khí rất đa dạng, bao gồm thiết bị quốc phòng của phương Tây, Nga và Trung Quốc. "Điều này có thể dẫn đến các vấn đề về khả năng tương tác", ông chỉ ra.

Rahman đồng tình với quan điểm này và cho biết Indonesia có thể sẽ phải đối mặt với những vấn đề quan trọng trong việc tích hợp và bảo trì các hệ thống mới, đặt câu hỏi về việc máy bay KAAN sẽ hoạt động như thế nào với máy bay Sukhoi Su-30 của Nga và máy bay F-16 của Mỹ mà Không quân Indonesia đang sử dụng.

Ông nói thêm rằng một vấn đề khác có thể là chi phí bảo trì, với những ngân sách này thường bị Malaysia và Indonesia bỏ qua.

"Nhiều máy bay hoặc nền tảng đắt tiền thậm chí không thể hoạt động tối ưu về lâu dài nếu chúng không được bảo trì tốt", ông cảnh báo.

Lam cho biết thêm rằng một yếu tố khác cần cân nhắc khi nói đến việc bảo trì là nhiều bộ phận quan trọng trong vũ khí của Thổ Nhĩ Kỳ, như hệ thống điện tử hàng không, động cơ và hệ thống radar, vẫn phụ thuộc vào các nhà cung cấp từ Mỹ, Anh và châu Âu.

Trong khi đó, ông Jamil nói thêm cũng có rủi ro xung quanh việc phụ thuộc vào các thành phần không phải của Thổ Nhĩ Kỳ như động cơ, vốn có thể phải chịu các hạn chế về cấp phép hoặc xuất khẩu.

Bảo Hà/Báo Tin tức và Dân tộc

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/phan-tichnhan-dinh/nhung-nhan-to-giup-vu-khi-tho-nhi-ky-chinh-phuc-nhieu-nuoc-dong-nam-a-20250918131845981.htm