Những tương đồng giữa Atharva-Veda & Mật giáo trong vấn đề sản nạn của người phụ nữ

NSGN - Chớ có dùng bùa chú,

A-thar-va Vệ-đà.

Chớ tổ chức đoán mộng,

Coi tướng và xemsao1.

Một trong những trăn trở liên quan đến sức khỏe, hoặc thậm chílà sinh mạng của người phụ nữ ở thời kỳ cổ đại, là được sinh nở an toàn. Vì lẽ,với nhân loại nói chung và người Ấn Độ nói riêng, mặc dù ngành y học ở thời kỳcổ đại đã có những thành tựu đáng chú ý, thế nhưng đứng trước yêu cầu an toàntrong sanh nở, là một thử thách không giản đơn.

Đối diện với thực trạng này, ngoài nỗ lực mang tínhchủ đạo của ngành y học thời kỳ đầu, thì các tôn giáo ở Ấn Độ, cụ thể là Ấngiáo và Phật giáo, đã có những quan tâm nhất định thông qua những lời cầu nguyệnhay các bài kinh, chú.

Chuyên khảo sauđây cố gắng làm sáng tỏ nguồn gốc, và sự liên hệ qua những bài kinh, chú liênquan đến vấn đề phụ nữ sản nạn, của Ấn giáo và của Mật giáo, cũng như quan điểmchính thống của Phật giáo đối với vấn đề này.

Thần chú Chuyển dạ bình an trong Atharva-Veda

Atharva-Veda làmột trong bốn bộ cổ thư của Ấn Độ cổ đại, hiện còn 20 tập (Kaṇdạ). Bài thần chú liên quanđến vấn đề sanh nở dễ dàng của người phụ nữ nằm ở tập thứ nhất, tụng ca (Hymn)thứ 11. Để độc giả tiện việc đối chiếu, chúng tôi xin trích dịch bài thần chúnày từ nguyên bản tiếng Anh của học giả F. Max Muller2. Trong những trường hợp cần thiết, chúng tôitham chiếu bài thần chú này qua nguyên bản Phạn ngữ, mẫu tự Devanagari của tácgiả Devi Chand3.

1- Thần chú Chuyển dạ bình an (Charm for easy parturition)4

1. Hỡi thần mặt trời (Aryaman: अर्यमन्)5,như một đạo sĩ thờ lửa, luôn tinh cần trong việc hiến tế đối với Ngài, khi lơìcầu nguyện vừa dứt thì mặt trăng (Soma: सोम)6 sẽ lặn đi. Hỡi thầnPūan (पूषन)7 chủ trì việc dưỡng dục, cầu mong Ngài gia hộcho người phụ nữ này, được sinh con đúng pháp và chu toàn. Mong các khớp xươngcủa cô ta được buông lỏng, vì cô ấy sắp sửa sinh con.

2. Các vị thánh thần đã tạo ra phôi thai, từ bốn phươngdưới đất và cả bốn phương trên trời. Cầu mong các Ngài quan tâm gia hộ, vì cô âýsắp sửa sinh con.

3. Cầu mong dạ con của người thai phụđang chuyển sinh được thuận duyên khai mở. Hỡi, người thai phụ, hãy mở rộnglòng. Hỡi người chuyển dạ (Bishkala: बिष्कल)8, hãy sinh con ra (sarja:स्र्ज)9.

4. Không bám dính vào thịt, không bám dính vào mỡ, cũngkhông bám dính vào tủy xương, cầu mong vật dơ bẩn, mủ máu, cái nhau thai nàyhãy rơi xuống để cho chó (súne: सुने)10 ăn. Cầu mongbánh nhau thai rơi xuống.

5. Tôi sẽ lần lượt khai mở từ dạ con,cửa mình cho đến các dây cuống rốn. Tôi sẽ chia tách người mẹ và đứa con. Một đưátrẻ trai (Kumāra: कुमार)11 cùng với nhau thai, cầu mong bánhnhau thai rơi xuống.

6. Như ngọn gió lung lay, như linh hồndao động, như đôi cánh chim bay; ngươi hãy làm như vậy, này hỡi bào thai, đã mươìtháng dài (Dasámāsya: दशमास्य12 hãy thuận xuôi ra cùng với bánh nhauthai. Cầu mong bánh nhau thai rơi xuống.

Trong phần chúgiải Atharva-Veda, tác giả Maurice Bloomfield13đã chỉ ra một vài khác biệt nhỏ trong các bản dịch về bài thần chú này. Tuynhiên, phần lớn các học giả phương Tây đều thống nhất với nhau về những nôịdung căn bản.

Như vậy, bản thầnchú Chuyển dạ bình an trong Atharva-Veda chứa đựng những nội dung gầngũi với thực tế, và ít mang màu sắc thần bí nếu như được giải nghĩa ra. Đó cũnglà điều tương tự như bài thần chú: Phật thuyết phụ nhân sản nạn Đà-la-ni.

2- Thần chú Phật thuyết phụ nhânsản nạn Đà-la-ni (佛說婦人產難陀羅尼)trong Mậtgiáo.

Thần chú Phậtthuyết phụ nhân sản nạn có nguồn gốc trong một số tác phẩm sau:

Đà-la-ni tạp tập, quyển thứ 514.

Pháp uyểnchâu lâm, quyển 60, thiên Chú thuật15.

* Về nguồngốc tư liệu:

Đà-la-ni tạp tập là một tác phẩm thuộcMật giáo, tập thành nhiều thể loại thần chú, gồm 5 tập, mang số 1.336, nằmtrong tập 21 thuộc Đại tạng kinh Đại chính tân tu. Đây là một tác phẩm Mậtgiáo khá đồ sộ. Tuy nhiên, như sự ghi nhận ở dòng đầu tiên trong tác phẩm chothấy, đây là một tác phẩm không rõ ai là tác giả, và được tập thành vào thơìnhà Lương (502-557).

Trong khi đó,tác phẩm Pháp uyển châu lâm, gồm 100 quyểndo ngài Đạo Thế(?-683) một cao tăng sống ở thời nhà Đường, từng tham gia dịch trường của ngàiHuyền Tráng, đã tổ chức biên soạn tác phẩm này tại chùa Tây Minh. Tác phẩm Phápuyển châu lâm được xem như một bách khoa toàn thư của Phật giáo trong thơìkỳ nhà Đường.

Như vậy, saukhi đối soát về niên đại giữa hai nguồn tư liệu nêu trên, đã cho thấy rằng, bàithần chú Phật thuyết phụ nhân sản nạn Đà-la-ni có nguồn gốc đầu tiên nằmtrong tác phẩm Đà-la-ni tạp tập. Trong khi đó, tác phẩm Đà-la-ni tạptập là một tác phẩm không rõ do ai đã biên soạn, và do vậy, bài thần chúnày có một nguồn gốc không rõ ràng.

* Sơ lược nội dung và những dấu vết tương tự nhưAtharva-Veda trong bài thần chú Phật thuyết phụ nhân sản nạn Đà-la-ni

Nguyên văn bàithần chú theo phiên âm Hán-Việt như sau:

Mục đa tu lơịdạ xá, thi già la, tất xỉ, la hầu thất chiên đà la, ba la mục chí dã đâu mục đatát bà bà bà bà, phật đồ na lợi già la, ba bà la mục già dã đâu, đa điệt tha, atrá sa ha, bà trá tì, sa ha, a trá bà, bà trá tì, sa ha, mộ già nhân địa lợi dạ,già đa nễ, tỳ xá lệ dạ, bà bà đâu, già tỳ ni sa ha, di giá đà, lộ ma dạ xá lơịdạ, di già xá, a dư ma dạ, y mị già ma nộ sa, xá lô dạ, tát tì xá lô, ba la mụcgià đâu, sa ha.

Trong quá trình phiên dịch kinh điển, có hai trườnghợp mà các nhà phiên dịch thường sử dụng, đó là dịch ý và dịch âm. Đối với cácloại thần chú, phần lớn là dịch âm, và một đôi chỗ thì dịch ý.

Với vấn đề dịch âm thần chú, Tiến sĩ Vương VănNhan, người Đài Loan, cho rằng: Phàm là dịch âm, chỉ có thể đạt đến mức độtương đối gần với nguyên âm, chứ tuyệt đối không thể nào hoàn toàn giống nhưnguyên âm. Tại vì phương pháp biểu âm của hai loại ngữ hệ khác nhau, do đó, cácâm tiết, âm điệu, âm chất và phương pháp phát âm hiển nhiên cũng sai khác. Chẳnghạn chữ book trong tiếng Anh, nếu dùng chữ Hán “bố-khắc” chú âm,âm tuy gần giống nhưng chung cục không có cách nào giống hệt nguyên âm. Về tìnhhình dịch âm thần chú rất giống như thế, nghĩa là chỉ tương đối giống vơínguyên âm16.

Khảo về tư liêụhướng dẫn phiên dịch Phạn-Hán, qua các tác phẩm hiện còn trong Đại tạng kinhĐại chính tân tu như: Phiên dịch danh nghĩa tập17, Phạn ngữ tạp danh18, Nhất thiết kinh âm nghĩa19, Phiên Phạn ngữ20, Phạn ngữ thiên tự văn21…đã cho thấy có nhiều điểm bất đồng trongcách phiên âm từ Phạn sang Hán.

Do tính chất đặcthù trong khi phiên dịch và phiên âm Phạn-Hán, thế nên, đối với bài thần chú Phậtthuyết phụ nhân sản nạn Đà-la-ni, chúng tôi chỉ có thể chỉ ra vài từ ngữ giốngvới thần chú Chuyển dạ bình an trong tác phẩm Atharva-Veda. Đó là cáctrường hợp sau:

- Tu-lợi(修利).

Theo Phiên dịch danh nghĩa tập, quyển 222, Phiên Phạn ngữ, quyển 823, cho rằng, đó là tên của thần mặt trời (此云日神)24. Trường hợp này rất giống với chữ Aryaman (अर्यमन्) trong Atharva-Veda.

-Chiên-đà-la(栴陀羅)

Theo Phiên Phạn ngữ, quyển 2,quyển 5, quyển 8 cho rằng, đó là tên của mặt trăng (譯曰月也)25. Trong tín niệm Ấn giáo, thần mặttrăng được gọi là Chandra (चन्द्र hoặc là So-ma (सोम.Chandra thường được phiên âm thành Chiên-đà-la (栴陀羅).Trong bài thần chú của Atharva-Vedaghi rằng đó là vị thần So-ma (सोम).

- Lợi-dạ(利夜)

Theo Nhất thiết kinh âm nghĩa, quyển 21, đó là tênvị thần Phổ Hiện Cát Tường (普現吉祥)26, gọi đầy đủ làThi-lợi-dạ (尸利夜). Thần Phổ Hiện Cát Tường rất gần với tên gọi thần PhổThiện (普善神), tức là thần Pūsạn (पूषन)27 trongAtharva-Veda. Tên của vị thần này cũng xuất hiện trong Đại phương quảng PhậtHoa nghiêm kinh quyển 1, quyển 328.

- Ma-nộ-sa(摩怒沙).

Ma-nộ-sa (摩怒沙), Phạn ngữ ghi là Manusyạ (मनुष्य29, tức chỉ chocon người. Ở đây, nghĩa của từ Ma-nộ-sa rất gần với nghĩa Kumāra (कुमार trong Atharva-Veda. Trong kinh tạng Mật giáo, có đề cậpđến một pháp của Đại oai đức minh vương gọi là Ma-nỗ-sa-lỗ-địa-la (摩努沙嚕地囉)30. Phạn ngữ: Manusyạrudhira(मनुष्यरुधिर). Theo từ điển Phật học của Đinh Phúc Bảo, Ma-nỗ-sa chỉcho người. Còn Lỗ-địa-la là máu31.

- Già-đa(伽多)

Theo Phiên Phạn ngữ, quyển 3,Già-đa (伽多) được dịch là khứ (去), mang nghĩa vứt bỏ32. Ở nghĩanày, Già-đa (伽多) có nghĩa tương tự như Jarāyu जरायु)33 mangnghĩa chết đi, lột bỏ đi, vứt bỏ nhau thai nhu trong thần chú của Atharva-Veda

-A-trá-bà(阿吒婆);

Theo kinh Nguyệtđăng tam muội, quyển 2, thì A-trá-bà (阿吒婆) là một loại quỷ Dạ-xoa hôi hám với lông đầy gai nhọn34.

- A-trá-tỳ(婆吒毘)

Theo kinh Chánhpháp niệm xứ quyển thứ 16, A-trá-tỳ (婆吒毘) là một loại quỷ Khoáng dã, đứng vị trí thứ 32 trong 36 loạiquỷ35.

- Ba-la(波羅).

Theo PhiênPhạn ngữ, quyển 2, quyển 8, Ba-la (波羅) có nghĩa là phòng hộ, che chở36.

- Tỳ-xá(毘舍).

Gọi đầy đủ là Tỳ-xá-xà(毘舍闍). Theo Nhất thiết kinh âm nghĩa,quyển 23, đó là một loại quỷ chuyên ăn tinh khí của ngươì37.

-Na-lê-già-la(那梨伽羅).

Theo PhiênPhạn ngữ, quyển thứ 9, Na-lê-già-la (那梨伽羅) có nghĩa là nhà dột trước sau38.

Bài thần chú Phậtthuyết phụ nhân sản nạn Đà-la-ni chỉ có 120 chữ, tuy nhiên do khả năng giơíhạn của chúng tôi, do sự bất đồng trong cách phiên âm Phạn-Hán của các nhà dịchkinh ở thời kỳ đầu, thế nên chúng tôi chỉ có thể chỉ ra 10 trường hợp bao gồm26 chữ có nghĩa. Trong số đó, có những từ khóa quan trọng liên hệ với thần chúChuyển dạ bình an trong tác phẩm Atharva-Veda như thần mặt trời, thần mặttrăng, thần chủ sự sinh sản… Có một điểm tuy khác biệt nhưng thực chất giốngnhau về tính chất, đó là các loại quỷ được ghi nhận trong Phật thuyết phụnhân sản nạn Đà-la-ni; nhưng trong thần chú Chuyển dạ bình an thìcho rằng, đó là một loại chó. Trong thần thoại Ấn độ, chó là một linh vật liênquan đến thần chết Yama39.

Như vậy, từ 2điểm quan trọng mà chúng tôi đã chứng minh liên quan đến thần chú Phật thuyếtphụ nhân sản nạn Đà-la-ni.

Thứ nhất, bài thần chú này có nguồn gốc không rõràng. Thứ 2, nội dung bài chú chứa đựng nhiều dữ kiện liên quan đến thần chú Chuyểndạ bình an trong Atharva-Veda, đã đủ cơ sở đi đến kết luận:

Phật thuyếtphụ nhân sản nạn Đà-la-ni là một bài chú không thuần túy của Phật giáo, nêúkhông nói là có nhiều dấu hiệu mang tính tiếp biến từ mật chú Chuyển dạ bìnhan của Atharva-Veda.

Cần lưu ý rằng,trong kinh Tập, Đức Phật đã từng chỉ dạy đệ tử của Ngài không nên sử dụngthần chú của Atharva-Veda:

Chớ có dùngbùa chú/ A-thar-va Vệ-đà/ Chớ tổ chức đoán mộng/ Coi tướng và xem sao/ Mong rằngđệ tử Ta/ Không đoán tiếng thú kêu/ Không chữa bệnh không sanh/ Không hành nghềlang băm40.

Thế nhưng, từ nhu cầu của hiện thực đời sống, vấnđề an toàn trong sanh nở của người phụ nữ cũng là một vấn đề cần được đặt ra vàđòi hỏi cần có một giải pháp thích đáng. Khảo về lịch sử kinh điển đã cho thâýrằng, vấn đề này đã được Đức Phật quan tâm và đã có những giải pháp mang tính gơịmở, nhân văn.

Giải pháp của Phật giáo về vấn đề sản nạn của người phụ nữ

Kinh điển của hai truyền thống (Bắc truyền và Namtruyền) đều ghi nhận về câu chuyện sinh động liên quan đến Tôn giaẢŋgulimāla. Theo kinh Trung bộ41Trưởng lão Tăng kệ, do sự hướng dẫn của thầy tà, Tôn giả Aŋgulimālađã trở thành một kẻ sát nhân, gieo rắc cái chết cho nhiều người, chỉ nhằm lâýngón tay kết thành tràng hoa. Kể từ khi theo Phật xuất gia, Tôn giả Aŋgulimālatinh tấn tu tập và đã được vua Pasenadi nước Kosala trọng thị, tán thán. Vềphương diện hành trì, do bản thân từng là một kẻ sát nhân, nên Tôn giả lấy phápquán từ bi làm tâm điểm trong tu tập. Điều này, trong Trưởng lão Tăng kệTôn giả đã tự thuật rằng:

Ai trước làmnghiệp ác,

Nay lấy thiệnchận lại.

Chói sáng thếgiới này,

Như trăngthoát mây che.

Một lần nọ vàothành khất thực, có một sản phụ đang chuyển dạ cầu mong Tôn giả chỉ cho mộtpháp bình an. Thực tế này Tôn giả Aŋgulimāla chưa từng gặp bao giờ nên phải trởvề tham vấn Đức Thế Tôn. Sau khi nghe Đức Phật chỉ dạy, Tôn giả quay trở lại chỗngười sản phụ và dạy rằng:

Thưa bà chị, vì rằng tôi từ khi được Thánh sanh đếnnay chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy,bà được an toàn, và sanh đẻ được an toàn42.

Sau lời chúnguyện của Tôn giả, người phụ nữ đã vượt cạn an toàn. Câu chuyện giúp người sảnphụ của Tôn giả Aŋgulimāla đã cho thấy, Phật giáo nói chung đã có những quantâm rất sớm đến những vấn đề cụ thể trong cuộc sống. Không những vậy, toàn văncâu chú nguyện của Tôn giả, đã được một số truyền thống Phật giáo sử dụng như mộtbài chú Hộ sản. Nguyên văn Pāli của câu chú nguyện ấy như sau:

Yato ahaṃ bhagini|| āriyāya jātiyā jāto||nābhijānāmi sañcicca pānạṃ jīvitā voropetā|| tena saccenasotthi te hotu sotthi gabbhassā’ ti43.

Ở đây, tại saochỉ với một câu nói ngắn ấy nhưng đã tạo ra một kết quả thù thắng như vậy?

Theo chúng tôi, từ lời chú nguyện của Tôn giaẢŋgulimāla đã chuyên chở một pháp tu quan trọng trong Phật giáo. Đó chính làpháp tu rải tâm từ.

Rải tâm từ là một pháp tu được Đức Phật khuyếnkhích khi có một Tỳ-kheo bị rắn cắn chết. Sau sự kiện đó, Đức Phật đã giảng bàikinh Vua các loài rắn trong kinh Tăng chi44.

Trở lại câuchuyện cầu nguyện của Tôn giả Aŋgulimāla. Điều đầu tiên cần phải thấy, muốnchia sẻ sự bình an, thì cá nhân đó phải có sự bình an thực sự. Tôn giả là ngươìhoàn toàn bình an kể từ khi xuất gia, thì sựchia sẻ bình an của Tôn giả là sự kiện có cơ sở.

Cho nên đối với chúng ta, mặc dù mới tập sự tu tậpvà chưa chứng Thánh quả như trường hợp của Tôn giả Aŋgulimāla, nhưng nếu biếttrưởng dưỡng lòng từ và chia sẻ lòng từ, thì vẫn tạo nên những hiệu ứng tích cực.Về phương diện ngược lại, đây cũng là điều lý giải tại sao mặc dù đã đọc chú Hộsản (AgulimālaParitta) hàng triệu lần nhưng kếtquả chuyển biến rất ít, do vì năng lực tâm từ hạn chế của chúng ta.

Như vậy, giải pháp thiết thực của Phật giáo trong vấnđề sản nạn của người phụ nữ là dựa trên nền tảng căn bản của pháp tu rải tâm từ.Pháp tu rải tâm từ được các truyền thống Phật giáo triển khai với một vài đặcthù, sai khác; tuy nhiên, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng kinh kinh Từ bi(Mettā Sutta) mà Đức Phật đã dạy trong kinh Tập45.

Kết luận

Đối với một người được xem là trưởng thành về trithức, theo quan điểm của triết học Ấn Độ cổ đại, là phải nắm vững các bộ Vedanói chung, hay tác phẩm Atharva-Veda nói riêng. Nội dung các cuộc thảo luận giưãĐức Phật và các vị Bà-la-môn trong kinh Phạm võng thuộc Trường bộ,là một trong những minh chứng khẳng định rõ điều này.

Với khảo sát bướcđầu cho thấy, Atharva-Veda là một trong những thành tựu của nền văn minh Ấn Độcổ đại, chứa đựng nhiều thể loại mật chú nhằm đáp ứng các vấn đề khác nhau, từsinh sản, bệnh tật, chăn nuôi, cưới gả… thậm chí là cả việc ăn chơi, cờ bạc haychiến thắng trong chiến tranh. Có thể tìm thấy ở đây nhiều bài cầu nguyện, cácthể loại phù chú, nhằm đáp ứng các yêu cầu phức tạp, khác nhau của con người.

Ngay từ thời Phậttại thế, Ngài đã nhận thấy điều này và đã không cho phép đệ tử xuất gia vận dụngcác chú pháp của Atharva-Veda vì bất kỳ mục đích gì.

Từ những phântích và đối khảo ở trên, đã cho thấy, bài thần chú Phật thuyết phụ nhân sảnnạn của Mật giáo, có nguồn gốc hình thành không rõ ràng, và đặc biệt là córất nhiều dấu hiệu giống với bài chú Chuyển dạ bình an của Atharva-Veda.Do đó, đã là một người Phật tử, dù xuất gia hay tại gia, thì không nên hành trìbài thần chú này.

Cần phải thấy,bản chất của đời sống là khổ, và không có cái khổ nào giống với cái khổ nào. Vấnđề là, tùy theo hiện trạng của từng nỗi khổ, mà lựa chọn một giải pháp tươngưng nhằm chấm dứt khổ đau.

Chúc Phú

______________________

(1) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập,kinh Tuvataka, (Con đường mau chóng- Sn, 179).

(2) The Sacred Booksof the East, F. Max Muller Ed. Vol. XLII. Oxford: The Clarendon Press,1897. p.99.

(3)The Atharva-Veda (Sanskrit text), Devi Chand M.A Trans. New Delhy:Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd, Reprinted 2014, p.9-10.

(4) The Sacred Booksof the East, F. Max Muller Ed. Vol. XLII. Oxford: The Clarendon Press,1897. p.99. Cf, Charm for easy parturition.

Aryaman as active hotar-priestshall utter for thee the vashat-call at this (soma-) pressing, O Pûshan! May(this) woman, (herself) begotten in the proper way, be delivered, may herjoints relax, that she shall bring forth!

Fourdirections has the heaven, and also four the earth: (from these) the godscreated the embryo. May they open her, that she shall bring forth!

May Sûshan open: her womb do wecause to gape. Do thou, O Sûshana, loosen the womb, do thou, O Bishkalâ, let go(the ernbryo)!

Attachednot at all to the flesh, nor to the fat, not at all to the marrow, may thesplotched, moist, placenta come down to be eaten by a dog! May the placentafall down!

I split open thy vagina, thy womb, thy canals;I separate the mother and the son, the child along with the placenta. May theplacenta fall down!

As flies the wind, as flies the mind, as fly the winged birds, so dothou, O embryo,. ten months old, fall along with the placenta! May the placentafall down!

(5) M.Monier-Williams, ASanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.93.

(6) Ibid, p. 1249.

(7) M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary.Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p. 645. Thần Pūsạn, Hán dịch là thần Phổ Thiện (普善神). TheoPhật Quang Đại từ điển, thần Phổ Thiện là vị thần chuyên lo việc dưỡng dục.

(8) Ibid, p.732.

(9) Ibid, p.1184.

(10) Ibib, p.1082.

(11) Ibid, p.292.

(12) Ibid. p.472.

(13) The Sacred Booksof the East, F. Max Muller Ed. Vol. XLII. Oxford: The Clarendon Press,1897. p. 242-245.

(14) 大正藏第 21 冊 No. 1336 陀羅尼雜集.

(15)大正藏第 53 冊 No. 2122 法苑珠林.

(16) Vương Văn Nhan, Lịchsử phiên dịch Hán tạng, Thích Phước Sơn dịch, NXB.Phương Đông 2008,tr.290-291.

(17) 大正藏第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集.

(18)大正藏第 54 冊 No. 2135 梵語雜名.

(19)大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義.

(20)大正藏第 54 冊 No. 2130 翻梵語.

(21) 大正藏第 54冊 No. 2133A 梵語千字文.

(22)大正藏第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, 第二.

(23)大正藏第 54 冊 No. 2130 翻梵語.

(24)大正藏第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, 第二.

(25)大正藏第 54 冊 No. 2130 翻梵語.

(26)大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義.

(27) M.Monier-Williams, ASanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.645.Thần Pūsạn, Hán dịch là thần Phổ Thiện (普善神).

(28)大正藏第 10 冊 No. 0279 大方廣佛華嚴經.

(29) M.Monier-Williams, ASanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.784.

(30)大正藏第 21 冊 No. 1214 聖閻曼德迦威怒王立成大神驗念誦法.

(31) Theo, Đinh Phúc Bảo,Phật học Đại từ điển, quyển hạ, Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội ấn hành,2012, tr.2566.

(32)大正藏第 54 冊 No. 2130 翻梵語.

(33) M.Monier-Williams, ASanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.414.

(34)大正藏第 15 冊 No. 0639 月燈三昧經. Nguyênvăn: 灰毛針夜叉, 阿吒婆可畏.

(35)大正藏第 17 冊 No. 0721 正法念處經. Nguyên văn: 三十二者阿吒毘, 曠野餓鬼.

(36)大正藏第 54 冊 No. 2130 翻梵語. Nguyên văn: 波羅者護.

(37)大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義. Nguyên văn: 此云噉人精氣鬼也.

(38)大正藏第 54 冊 No. 2130 翻梵語. Nguyên văn: 譯曰漏列屋也.

(39) M.Monier-Williams, ASanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p. 846.See also: Indian Myth and Legend: Chapter III. Yama, the First Man, andKing of the Dead”. Sacred-texts.com. Retrieved 4 July2013. Cf,http://www.sacred-texts.com/hin/iml/iml08.htm.

(40) Kinh Tiểu bộ, kinhTập, kinh Tuvataka, (Con đường mau chóng- Sn, 179).

(41) Kinh Trung bộ, tập2, kinh Angulimala, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 125-132.

(42) Kinh Trung bộ, tập2, kinh Angulimala, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 130.

(43) Aŋgulimāla Suttaṃ. Adapted from the digitalversion of the Sri Lanka Buddha Jayanti Tripitaka Series.

(44) Kinh Tăng chi,chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp công đức, kinh Vua các loài rắn. Xem thêm,Cullavagga 2, chương Các tiểu sự, tụng phẩm thứ nhất và thứ nhì, tụng phẩm26-27.

(45) Kinh Tập, chương1, phẩm Rắn, kinh Từ bi.

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/phatgiaovaxahoi/2016/03/03/77c4da/