Những vòng quay đời lộng
Từ ngày mở làng, người dân đã gắn bó với con thuyền thúng, sống bằng nghề đánh bắt hải sản gần bờ mà họ gọi là nghề 'đi lộng'. Người đi lộng là những ngư phủ nghèo không đủ tiền tậu tàu lớn, hoặc những ngư phủ già đã chồn chân mỏi gối sau nhiều năm ăn sóng ngậm gió, họ chủ yếu đi gần bờ và đi về trong ngày.
Đêm ngày đời lộng
Những con thuyền nhỏ ì ạch vượt sóng chừng gần một hải lý thì thả neo, giăng lưới kín cả một vùng biển hẹp như ở những thôn Thanh Thủy, thôn Phước Thiện (xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi). “Nghề lộng là thế đó, trời cho thì có, không cho thì thôi. Thả lưới, giăng câu, đánh đèn chỉ cách nhau mấy sải, nhưng có người được bạc triệu, có người về không!”, một lão ngư cười tuềnh toàng bộc bạch.
Làng biển Thanh Thủy sau lưng là ghềnh cát, trước mặt là biển bạc, nhưng dải đất cằn cỗi này từ xưa đến nay không hề hào phóng với con người. Thôn Thanh Thủy nằm khép nép dưới chân rú cát cuồn cuộn bên bờ biển Đông. Làng hướng mặt nhìn lên núi cao, lưng tựa vào cơ man cát trắng. Cả làng có vài chục chiếc thuyền đánh lộng gần bờ. Cho đến nay, hầu như khắp các làng biển Việt Nam đã vắng dần nghề đi lộng, không còn duy trì nghề cổ xưa đánh bắt cách bờ vài trăm mét nữa. Các làng biển đã vươn khơi ra đến Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng mảnh làng nhỏ bé này vẫn thu mình với các nghề thủ công nặng nhọc trước vô biên sóng vỗ ào ạt réo rắt đất làng.
Từ ngày mở làng, người dân đã gắn bó với con thuyền thúng, sống bằng nghề đánh bắt hải sản gần bờ mà họ gọi là nghề “đi lộng” để phân biệt với nghề đi khơi, tức đánh bắt xa bờ. Đến nay, người dân trong làng nhiều người vẫn sống bằng nghề đi lộng. Ông Nguyễn Văn Tiến, Trưởng khu dân cư Hải Hòa (thôn Thanh Thủy, xã Bình Hải) cho biết, làng biển này nằm ở bãi ngang ven biển nên ngư dân không sắm thuyền to, máy lớn để đi Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng với tinh thần bám biển, phát triển kinh tế, nhiều ngư dân vẫn hành nghề câu đi thúng. Xóm có 50 thúng máy, 6 chiếc ghe và 120 thúng bơi, chủ yếu đánh bắt quanh vùng biển hẹp này, xa nhất là tới đảo Lý Sơn.
Người đi lộng là những ngư phủ nghèo không đủ tiền tậu tàu lớn, hoặc những ngư phủ già đã chồn chân mỏi gối sau nhiều năm ăn sóng ngậm gió, họ chủ yếu đi gần bờ và đi về trong ngày, hoặc qua ngày hôm sau. Đặc trưng của nghề đi lộng là hải sản về đến bờ luôn tươi sống, họ phải huy động nhiều nhân lực để gỡ hải sản đã dính lưới, công việc này mất cả tiếng đồng hồ.
Anh Nguyễn Văn Hải, một trong số nhiều ngư dân ở làng biển này vẫn theo nghề lưới tủ của tổ tiên truyền lại từ hơn 300 năm trước. Chỉ khác, anh nhỉnh hơn ngư dân trong làng là vay được mấy triệu đồng sắm cái máy không phải chèo tay. Chiếc thuyền gỗ 20CV của anh đủ sức đương đầu với mấy con sóng cách bờ chừng một vài hải lý, nhưng anh chưa bao giờ đi biển xa như thế, chỉ bám lộng như cha ông trước đây.
Anh Hải vui mừng cho biết, thời gian này biển êm nên chuyến nào đi biển cũng trúng. “Mỗi lần đi từ một đến hai hôm cũng được dăm vài trăm ngàn đồng, hôm nào trúng thì được cả triệu. So với năm ngoái, năm nay “trúng” hơn nhiều”, anh Hải chia sẻ.
Nghề lộng cũng là cái nôi cho những đứa trẻ miền biển chập chững vào nghề rẽ sóng mưu sinh, chuẩn bị cho cuộc đời mai này vươn mình với gió, với sóng nước biển khơi. Khi trời còn nhọ mặt người, anh Phạm Văn Thạnh bắt đầu một chuyến đi lộng cách làng khoảng 2 hải lý. Con thuyền ì ạch vượt sóng rồi dừng lại thả neo, giăng lưới. Hôm nay là một ngày thất bát, vì theo kinh nghiệm 34 năm đi biển của anh Thạnh, hễ gặp phải dòng nước lạnh là cá, mực dạt đi hết.
“Nghề lộng là như vậy đó! Trời thương mà cho thì có, không cho thì dù thả lưới, giăng câu, đánh đèn chỉ cách nhau mấy sải tay thôi nhưng có người được bạc triệu, có người về không!”, bằng cái giọng đặc sệt của dân miền biển quen ăn sóng nói gió, anh Thạnh nói át cả tiếng gió và tiếng sóng biển ầm ào.
Vợ và cô con gái nhỏ của anh đã đợi sẵn khi thuyền của hai cha con cập vào bờ cát, rồi thoăn thoắt gỡ lưới. Ốc gai và mực lá đem nhập cho mấy quán nhậu ở gần đó, trừ tiền này nọ cũng đủ chợ búa trong ngày. Tất nhiên có ngày may mắn, anh Thạnh cũng kiếm được trên dưới một triệu đồng, bù lại những ngày thất bát có khi không thu được gì những ngày biển động.
Với những người đi lộng ở vùng biển này, những ngày bình thường cứ tầm 3 đến 4 giờ sáng ra khơi, đến 7 giờ thì về. Còn những ngày biển êm ngoài ra khơi chuyến biển lúc sáng sớm, ngư dân ở đây còn ra khơi chuyến 3 giờ chiều, đến khoảng 7, 8 giờ sáng hôm sau về lại bến. Mỗi lần ra khơi ngư dân có thu nhập từ 200 nghìn đến 400 nghìn đồng. Hôm nào “trúng” nhiều mẻ cá thì thu được vài triệu đồng là chuyện thường.
Sống đời lộng nghe từng miền sóng vỗ
Mùa này, chiều chiều trên con nước thanh bình, nhưng người đi lộng ở Thanh Thủy lại khiêng lưới xuống thuyền, ra biển. Họ chạy thuyền cách bờ chưa đến 2 hải lý, lưới được thả xuống. Có những thuyền chỉ chạy cách bờ vài trăm mét, và trai đinh trên bờ bắt đầu thu lưới với 2 hàng dây đứng chéo nhau, già có, trẻ có. Mọi người bắt đầu hô hầy kéo lưới. Họ dũi chân trên cát trắng, cật lực kéo tấm lưới nặng trịch, ở hông mỗi người kéo có cái lẩy niềng cột vào dây lưới. Một ngư dân giải thích rằng đó là cách giữ cho lưới không bị sóng cuốn, cũng để giữ sức cho người kéo không bị chùng chằng qua lại mà cố định mỗi chỗ trên dây. Những người kéo trên bờ thu lưới lên, phía trong có chừng 50kg cá các loại. Chủ yếu là cá nhỏ, ít mực, ít cá hố, ít cá đuối, còn lại cá trích. Cá được kéo lên bờ và được mua hết sạch, bán trong làng.
Bước chân vào các hộ dân làng lộng ở đây đa phần đều chỉ thấy những người đàn bà ngồi đan lưới, mấy đứa trẻ da sậm màu gió biển, những người đàn ông lo sửa lại những chiếc thuyền nhỏ. Một ngư dân nói chắc nịch: “Người dân ở đây chủ yếu đi lộng, nên cuộc sống vẫn còn nhiều khốn khó lắm. Mấy năm nay, nhà nước đã quan tâm và hỗ trợ cho ngư dân rất nhiều nên đời sống cũng đỡ khó khăn hơn trước. Nhưng giá xăng dầu ngày càng tăng, cũng là một gánh nặng với người đi lộng!”.
Bước chân vào các hộ dân làng lộng ở đây đa phần đều chỉ thấy những người đàn bà ngồi đan lưới, mấy đứa trẻ da sậm màu gió biển, những người đàn ông lo sửa lại những chiếc thuyền nhỏ. Một ngư dân nói chắc nịch: “Người dân ở đây chủ yếu đi lộng, nên cuộc sống vẫn còn nhiều khốn khó lắm. Mấy năm nay, nhà nước đã quan tâm và hỗ trợ cho ngư dân rất nhiều nên đời sống cũng đỡ khó khăn hơn trước. Nhưng giá xăng dầu ngày càng tăng, cũng là một gánh nặng với người đi lộng!”.
Quả thực, mấy năm trở lại đây, khi giá hải sản tươi sống tăng lên vì các dịch vụ du lịch phát triển, và cũng nhờ làng gần phố nên không còn cảnh một gánh cá chỉ đổi được một cân gạo như trước nữa. Nhưng trớ trêu thay, đây cũng là lúc biển không còn hào phóng với nghề lộng nữa.
Một phần vì số lượng người đi lộng giảm đi, phần khác vì sự phổ biến của loại lưới mắt nhỏ đánh bắt theo kiểu tận diệt nên các loài thủy sinh cũng dần cạn kiệt. Thế nên, người đi lộng cứ mãi sống trong cảnh có làm mới có ăn, không làm thì hết gạo. Ai tằn tiện, cố gắng lắm thì may mắn có thể dựng được căn nhà nhỏ, mua được cái xe máy, tivi, ai kém hơn thì làm chỉ đủ tiền đong gạo nuôi con.
Cuộc sống người đi lộng vẫn là những vòng quay bất tận với công việc của đàn ông, sáng ra biển, trưa về nhà hoặc ngược lại, đàn bà là sáng nấu cơm, trưa bán cá mua gạo, chiều đan lưới, còn lũ trẻ con thỏa sức chơi đùa với những con còng gió, dã tràng trên mép nước. Chẳng thế mà một lão ngư đã chua chát thốt lên: “Đời đi lộng cực nhọc lắm. Biển chỉ động vài bữa là đói treo mỏ!”.
Con chữ của lũ trẻ vì thế cũng phập phồng theo mỗi chuyến đi biển của cha mẹ. Mấy năm trước, trai tráng trong làng cũng đã có những cuộc “Nam tiến”, nhưng đồng lương công nhân ở các khu công nghiệp trong Nam khá eo hẹp, nên họ lại trở về làng, bám lấy những tay lưới, lặn ngụp với những con sóng trước nhà. Cũng có người nuôi hoài bão cùng các chủ tàu lớn đi đánh cá ngoài khơi dài ngày, nhưng người làng lộng luôn tâm niệm rằng nghề đi lộng tuy không giàu có nhưng ít hiểm nguy hơn, còn nghề đi khơi tuy đại dương hào phóng, nhưng cũng hung hãn vô ngần.
Thế nên, nhiều lão ngư làng lộng này đã nhiều lần khước từ lời mời ra khơi của các chủ tàu lớn, với mức công xá khá cao để chuyên với nghề lộng. Cứ thế, chẳng ai biết phải trả lời thế nào khi được hỏi có muốn con nối nghiệp lộng không, bởi những đứa con trai mới vừa kịp lớn lên đã có thể quăng chài khéo léo và dẻo dai hơn bố, con gái thì đan, vá lưới thoăn thoắt chẳng kém gì mẹ.
Một điều khiến người dân phấn khởi là sự quan tâm của Nhà nước với chính sách hỗ trợ dầu cho tàu cá đi biển trong những năm gần đây. Đó là sự hỗ trợ rất thiết thực đối với bà con ở đây. Nhờ vậy, bà con có thêm tiền sắm đồ nghề đi biển, thu nhập hy vọng cũng khá hơn. Sự tiếp sức của Nhà nước sẽ là sự khởi đầu giúp người dân làng lộng thay đổi tư duy, làm kinh tế bằng chính cái nghề ông bà để lại.
https://dulich.petrotimes.vn/
Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/nhung-vong-quay-doi-long-613100.html