Những vũ khí hạt nhân nhiều nguy cơ nhất
Trong lịch sử loài người, vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp nhất là bom hạt nhân.
Chỉ một trái bom có thể xóa sổ toàn bộ thành phố. Kể từ khi trái bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki, các nhà khoa học và kỹ sư đã tiếp tục cải tiến các thiết kế vũ khí hạt nhân. Kết quả vừa thú vị, vừa đáng kinh hoàng. Hy vọng rằng những vũ khí này sẽ không bao giờ được đưa ra sử dụng.
Đầu đạn hạt nhân “xách tay” W54
Thoạt đầu, khi mới được phát minh, vũ khí hạt nhân là những vật thể lớn, cồng kềnh, được sản xuất với số lượng tương đối thấp. Theo thời gian, kích thước của các hệ thống vũ khí này nhỏ đi nhiều, trong khi năng suất hạt nhân ngày càng lớn. Loại đầu đạn hạt nhân nhỏ nhất được phát triển là W54.
Mỹ đã phát triển loại vũ khí này vào những năm 1950 như một vũ khí hạt nhân chiến thuật, năng suất thấp, có khả năng phát ra vụ nổ từ 10 tấn đến 1 kiloton. Nó được tạo ra để sử dụng cho tên lửa tầm ngắn M-28 và M-29 Davy Crockett, có tầm bắn từ 2 - 4 km.
W54 đã được chuyển thể thành bom phá hủy nguyên tử di động đặc biệt. Cụ thể, nó sẽ được sử dụng nếu Liên Xô xâm lược châu Âu. Nó được thiết kế để người ta có thể mang theo và bắn trong khoảng cách ngắn như một loại đạn pháo.
Những chiếc W54 được cải tiến để trở thành tên lửa không đối không, mang đầu đạn hạt nhân. Mẫu W72 là loại W54 được chế tạo lại được sử dụng với bom dẫn đường AGM-62 Walleye, có khả năng mang lại năng suất hạt nhân 600 tấn. Tuy nhiên, không có mô hình nào được cho là đã hoàn thành.
W54 đã được thử nghiệm rộng rãi trước Hiệp ước Cấm thử hạt nhân vào năm 1963. Từ năm 1957 đến năm 1979, Mỹ đã sản xuất khoảng 400 quả W54.
Mark-18 Ivy King
Một số người lựa chọn phát triển vũ khí hạt nhân nhỏ gọn, trong khi những người khác lại thiên về ý tưởng chế tạo những “gã khổng lồ”. Mark-18 Ivy King làm hài lòng nhóm người sau vì nó là quả bom hạt nhân phân hạch tinh khiết lớn nhất mà Mỹ từng thử nghiệm.
Để đối phó trực tiếp với việc Liên Xô phát triển vũ khí hạt nhân năng suất cao trong những năm 1950, chính quyền Truman đã phát động Chiến dịch Ivy. Quả bom cũng được đặt là Ivy King, phù hợp với tên chiến dịch. Vào ngày 16/11/1952, quả bom được thử nghiệm và đạt được năng suất nổ 500 kiloton.
Quả bom khổng lồ nặng 3.900 kg. Nó sử dụng một hệ thống nổ 92 điểm và chứa một lượng cực lớn uranium được làm giàu cao (tương đương với bốn khối lượng tới hạn, khiến quả bom chạm tới ngưỡng an toàn). Vì vậy, người ta phải sử dụng dây xích nhôm và boron lấp đầy khoang trung tâm để ngăn chặn sự cố sập. Các chuỗi đã hấp thụ neutron với lượng cần thiết để đạt được phản ứng mong muốn. Mỹ đã sản xuất 90 quả bom Mark 18 từ tháng 3/1953 đến năm 1956.
Đạn pháo hạt nhân W82
Có hai hình thức triển khai vũ khí hạt nhân: Chiến thuật và chiến lược. Những quả bom được thả xuống Nhật Bản là vũ khí chiến lược. Mục đích của họ không phải là phá hủy hai thành phố của Nhật Bản mà đúng hơn, đó là một màn phô diễn vũ lực nhằm buộc người Nhật đầu hàng.
Vũ khí hạt nhân chiến thuật được sử dụng trong các hoạt động tác chiến cụ thể cùng với vũ khí thông thường. Ví dụ điển hình nhất là W82, một đầu đạn hạt nhân chiến thuật năng suất thấp được thiết kế để sử dụng trong hệ thống vũ khí pháo binh 155 mm.
W82 là một vũ khí đa năng với năng suất nổ đạt tới hai kiloton. Nó đi kèm với các thành phần có thể hoán đổi cho nhau cho phép lớp vỏ hoạt động như một “bức xạ tăng cường” hoặc một thiết bị phân hạch “tiêu chuẩn”.
Giống như nhiều loại vũ khí hạt nhân do Mỹ phát triển, W82 có nhiệm vụ cung cấp một “phòng thủ phía trước gắn kết” lãnh thổ NATO nếu Liên Xô cũ tấn công. Đạn có thể được bắn tới phạm vi 30 km thông qua một tên lửa hỗ trợ bổ sung. Mỹ đã lên kế hoạch sản xuất 2.500 đầu đạn W82, tuy nhiên, chỉ có khoảng 1.000 đầu đạn được phát triển trước khi chương trình bị hủy bỏ vào năm 1991, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Đầu đạn hạt nhân cho tàu ngầm W44
Nuclear Depth Charge
Tàu ngầm đã được chứng minh là một trong những phương tiện hiệu quả nhất trong chiến đấu vì chúng luôn là mối nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu đối với các tàu khác hoạt động trên mặt biển. Để chống lại điều này, hải quân trên khắp thế giới đã phát triển ngư lôi và tàu phóng điện sâu chuyên tìm và diệt tàu ngầm.
Thời Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã trang bị đầu đạn hạt nhân cho mọi loại vũ khí, trong đó có loại được phát triển để sử dụng cho RUR-5 ASROC (Rocket chống tàu ngầm) vào năm 1961. Hệ thống này có thể bắn đi ngư lôi Mark 44/46 được trang bị một đầu đạn hạt nhân W44.
Những quả ngư lôi này chỉ được phóng bởi các tàu nổi. W44 đạt năng suất 10 kiloton, khiến nó trở nên đặc biệt nguy hiểm nếu được bắn và phát nổ ở bất cứ đâu gần tàu ngầm. ASROC sẽ bắn vào vị trí của một tàu phụ bằng tên lửa mang ngư lôi siêu âm để triển khai hệ thống. Sau khi xuống nước, nó tách ra khỏi ngư lôi và nhanh chóng chìm đến độ sâu định trước và phát nổ.
Được đưa vào trang bị vào năm 1961, W44 chỉ được thử nghiệm một hoặc hai lần, mặc dù có tới 575 đầu đạn đã được sản xuất. Hiệp ước cấm thử hạt nhân năm 1963 đã chấm dứt các thử nghiệm đầu đạn hạt nhân dưới nước.
Boong ke B61 Mod 11
Để giữ an toàn trước vũ khí hạt nhân, cần phải ẩn náu sâu dưới lòng đất, giúp bảo vệ bạn khỏi vụ nổ và bức xạ hạt nhân. Nhưng việc chui vào lòng đất ẩn náu lại ngăn cản khả năng hạ gục đối phương. Để giảm thiểu mâu thuẫn này, Mỹ đã phát triển Mod 11 dành cho bom trọng lực nhiệt hạch B61.
Thiết bị hoạt động bằng cách kết hợp sốc đất với độ xuyên đất khoảng 3 mét. Sự kết hợp này có tác dụng đẩy phần lớn năng lượng nổ vào Trái đất, dẫn đến mục tiêu bị phá hủy.
Bom chùm boongke mang B61 Mod 11 có thể mang một trong ba lõi có năng suất hạt nhân: 0,3; 340 hoặc 400 kiloton. Bắt đầu từ năm 2019, Mỹ bắt đầu phát triển Mod 12 dẫn đường bằng GPS, với năng suất 0,3; 1,5; 10 hoặc 50 kiloton. Người ta tin rằng vũ khí này được thiết kế để xuyên thủng lớp đá granit rắn lên tới 304 mét.
Bom nguyên tử đặc biệt MK-54
Trong khi W54 được thiết kế để phóng bằng tên lửa, thì đạn nguyên tử đặc biệt MK-54 (SADM) được dùng để mang theo khi chiến đấu. Nó được thiết để chống lại nguy cơ Liên Xô tấn công châu Âu.
Thiết bị này tương đối nhẹ, với trọng lượng 23 kg và có thể bỏ vừa trong một chiếc túi vải thô. Đầu đạn có sức nổ tương đương từ 10 tấn đến một kiloton. Nó được trang bị tính năng đặt giờ nổ chậm, để người sử dụng có thể đặt vũ khí và thoát khỏi vị trí mục tiêu.
Ba trăm thiết bị MK-54 đã được phát triển và lính dù đã được huấn luyện cách sử dụng. Cách triển khai loại vũ khí này lý tưởng nhất là lính dù sẽ nhảy từ máy bay qua đối phương hoặc lãnh thổ bị chiếm đóng. Họ sẽ hướng tới một mục tiêu được xác định trước, có thể là một nhà máy điện, cây cầu hoặc một nguồn tài nguyên khác để tấn công.
Quả bom đặc biệt gây nhiều tranh cãi so với các loại vũ khí hạt nhân khác. Điều này là do những cáo buộc cho rằng sử dụng lính dù như vậy sẽ là một nhiệm vụ tự sát. Việc chạy nhanhđể thoát thân khỏi bán kính vụ nổ là không thực tế. Mark Bentley, một người lính được đào tạo về việc triển khai bom nguyên tử, khẳng định: “Tất cả chúng tôi đều biết đó là một nhiệm vụ một chiều, một nhiệm vụ tự sát.”
Va ly hạt nhân RA-115
Việc Mỹ phát triển MK-54 khiến Liên Xô phải triển khai vũ khí tương ứng. Họ đã tạo ra cái gọi là “vali hạt nhân” RA-11. Nặng 22 - 27 kg, chúng được thiết kế để đặt trong thời gian dài tại một vị trí mục tiêu để cuối cùng, sẽ được kích nổ trong thời điểm thích hợp.
Những quả bom này được kết nối với một nguồn điện nhỏ có pin dự phòng. Tín hiệu báo hiệu khả năng mất điện sẽ được chuyển tới văn phòng đại sứ quán hoặc lãnh sự quán Nga. Nhiều chiếc RA-115 đã được đặt tại các địa điểm chiến lược trên khắp thế giới.
Phần lớn những thông tin về hệ thống vũ khí RA-115 đã được cung cấp cho phương Tây bởi Stanislav Lunev, kẻ đào tẩu cấp cao nhất của lực lượng GRU. Theo Lunev và cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Nga Aleksandr Lebed, Liên Xô đã tạo ra 250 hệ thống vũ khí này và hơn 100 hệ thống đang mất tích.
Đó là một đề xuất đáng sợ vì vũ khí được thiết kế để đặt bên trong lãnh thổ Mỹ, nhằm loại bỏ các mục tiêu và chính trị gia nếu Chiến tranh Lạnh trở nên nóng hơn. Hội đồng An ninh Nga đã điều tra những tuyên bố này và cho rằng đây là thông tin không đáng tin cậy, gây hiểu lầm.
Mỏ hạt nhân Blue Peacock
Vương quốc Anh đã phát triển một mỏ đất hạt nhân để hỗ trợ NATO phòng thủ trong trường hợp Liên Xô vượt qua miền Bắc nước Đức để tấn công châu Âu. Dự án này được biết đến với cái tên Brown Bunny, trước khi tên được chuyển thành Blue Bunny và cuối cùng trở thành Blue Peacock.
Các mỏ này được thiết kế để tạo ra năng suất 10 kiloton. Chúng sẽ được kích nổ thông qua bộ đếm thời gian tám ngày hoặc bằng dây thủ công. Chương trình Blue Peacock đã được phát triển, nhưng chưa bao giờ được triển khai. Có quá nhiều rủi ro về bụi phóng xạ và ô nhiễm lãnh thổ mà các quốc gia NATO không muốn gánh chịu.
Tên lửa 9M730 Burevestnik
Tháng 3/2018, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã công bố 6 vũ khí chiến lược mới của Nga, trong đó 9M730 Burevestnik là vũ khí đặc biệt nhất. Nó là một tên lửa hành trình mang đầu hạt nhân và hoạt động bằng năng lượng hạt nhân.
Tên lửa hành trình liên lục địa này được phát triển ngay sau khi Mỹ triển khai hệ thống THAAD (Phòng thủ khu vực tầm cao giai đoạn cuối), nhằm chống lại các tên lửa liên lục địa mang đầu đạn hạt nhân (ICBM). Tên lửa 9M730 Burevestnik được thiết kế để chống lại THAAD.
Theo tuyên bố của Nga về loại vũ khí này, nó có tầm bắn không giới hạn và “bất khả chiến bại với tất cả các hệ thống phòng không và tên lửa tiên tiến hiện có”. Về mặt lý thuyết, THAAD không thể ngăn chặn chúng.
Vì loại vũ khí này tương đối mới nên không có thông tin được giải mật hoặc xác nhận về năng suất tiềm năng của nó. Người ta tin rằng sự phát triển của hệ thống này đã gây ra tai nạn phóng xạ Nyonoksa vào tháng 8 năm 2019. Điều này dẫn đến cái chết của 5 nhà khoa học vũ khí sau cuộc thử nghiệm “nguồn năng lượng đồng vị cho động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng”.
Bom Nga hoàng RDS-220
RDS-220 Tsar Bomba có lẽ là vũ khí hạt nhân nổi tiếng nhất. Được thử nghiệm vào tháng 10/1961, nó là chất nổ nhân tạo lớn nhất từng được kích nổ. Thiết bị này được phát triển như một bằng chứng về khái niệm hơn là một hệ thống vũ khí có thể sử dụng được. Nó dài 8 mét và nặng 27.000 kg. Chỉ có một trái bom kiểu này được chế tạo và thử nghiệm.
Có nhiều tuyên bố khác nhau về năng suất nguyên tử, có thể đạt tới 100 megaton nếu bao gồm cả giả mạo phản ứng tổng hợp uranium-238. Thay vào đó, RDS-220 Tsar Bomba được ước tính đạt năng suất 50 megaton, theo cách đo của các nhà khoa học Liên Xô vào thời điểm đó. Kích thước đó gấp hơn 3.300 lần vụ nổ ở Hiroshima.
Các máy bay được sử dụng để triển khai nó đã được cải tiến để hỗ trợ loại vũ khí khổng lồ này. Vỏ ngoài của chiếc tàu được phủ một lớp sơn phản chiếu màu trắng đặc biệt và thủy thủ đoàn chỉ có 50% cơ hội sống sót. Họ đã thả quả bom, tạo ra một đám mây hình nấm cao tới 67 km.