Nợ công ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương cao nhất trong 18 năm
Nợ công trung bình của các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang ở mức cao nhất trong 18 năm qua.
Nợ công trung bình của các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang ở mức cao nhất trong 18 năm qua, trong bối cảnh hầu hết các quốc gia đang phát triển ở khu vực đang cố gắng ổn định mức nợ công vào năm 2027.
Theo khảo sát của Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á-Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UN ESCAP), số lượng các quốc gia được xếp hạng vào nhóm có nguy cơ rơi vào tình trạng nợ cao ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang gia tăng khi mà số tiền nợ và chi phí trả nợ ngày càng tăng.
Năm 2019, tỷ lệ nợ công trên Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trung bình ở các nước đang phát triển trong khu vực là 40,6% GDP, mức cao nhất trong 11 năm qua.
Con số này sau đó tăng lên 49,5% GDP vào năm 2021 trong bối cảnh chính phủ các nước đưa ra các gói kích thích kinh tế lớn và nguồn thu giảm do đại dịch COVID-19. 2/3 nền kinh tế trong khu vực chạm mức nợ cao nhất kể từ năm 2008.
Báo cáo lưu ý rằng, một số nền kinh tế vẫn đang phải vật lộn với việc trả nợ nước ngoài khi số nợ trung bình gần đây phải trả tăng gấp đôi hoặc gấp ba so với giai đoạn trước, chạm mức 10% GDP trong năm 2022.
Trong báo cáo, Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres nhấn mạnh: "Nợ công ngày càng tăng sau đại dịch, cùng với triển vọng tăng trưởng kinh tế yếu hơn và lãi suất cao hơn, đã làm gia tăng đáng kể nguy cơ khủng hoảng nợ công trên toàn khu vực".
Dựa trên Khung bền vững nợ công của Ngân hàng Thế giới (WB) - Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đối với các quốc gia có thu nhập thấp, hoặc điểm xếp hạng tín dụng tương đương, 19 nền kinh tế trong khu vực được xếp hạng có nguy cơ khó khăn do nợ cao.
Theo dự báo mới nhất của IMF, hầu hết các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực dự kiến sẽ ổn định lại tỷ lệ nợ gộp của chính phủ vào năm 2027, trừ Trung Quốc và một số quốc đảo đang phát triển ở Thái Bình Dương.
Trong năm 2021, 5 quốc gia có tỷ lệ nợ công cao hơn 100% GDP gồm Nhật Bản đứng đầu với 262%, tiếp theo là Singapore với 160%, Bhutan với 132%, Maldives với 125% và Sri Lanka với 103%. Trong khi đó, tổng nợ của chính phủ các nước Fiji, Ấn Độ, Lào và Mông Cổ cũng cao hơn 80% GDP.
Thâm hụt ngân sách là yếu tố chính góp phần làm tăng nợ công trong khu vực, trong khi đồng tiền mất giá cũng khiến mức nợ công tăng ở một số quốc gia.
Báo cáo cũng cho thấy một nửa các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á-Thái Bình Dương phụ thuộc rất nhiều vào các khoản nợ nước ngoài, chủ yếu bằng USD, tiếp theo là đồng euro và đồng yen. Trong đó ở 12 nền kinh tế, các khoản nợ bằng USD lớn hơn 20% GDP.
Ở những nền kinh tế có tỷ lệ nợ trên GDP được bảo lãnh công khai cao hơn 10%, thì tỷ lệ nợ bằng USD lớn hơn con số 70% GDP đối với khoảng 2/3 nền kinh tế.
Mặt khác, một số quốc đảo nhỏ và các quốc gia không giáp biển đang phát triển chứng kiến khoản nợ của Trung Quốc tăng mạnh nhất, chủ yếu là trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI).
Năm 2021, các khoản cho vay của Trung Quốc dành cho khu vực này đã đạt con số 71 tỷ USD, tăng gấp 11 lần so với mức 6 tỷ USD vào năm 2008. Trong số các quốc gia mà Trung Quốc là chủ nợ có Campuchia, Kyrgyzstan, Lào, Maldives, Pakistan, Samoa, Tajikistan, Tonga và Vanuatu. Trung Quốc cũng chiếm hơn 20% tổng nợ công nước ngoài ở Fiji, Mông Cổ, Myanmar, Papua New Guinea và Sri Lanka.
Theo UN ESCAP, các khoản thanh toán nợ nước ngoài dự kiến sẽ tăng ở hầu hết các quốc gia trong những năm tới, gây rủi ro cho tính bền vững của nợ công tại một số nền kinh tế.
Báo cáo lưu ý thêm rằng, các quốc gia được xếp hạng có mức độ khó khăn về nợ cao cần tái cơ cấu nợ công nhanh chóng và đầy đủ, đồng thời nỗ lực hướng tới các cơ chế giải quyết nợ nước ngoài.
Ông Guterres nhấn mạnh: “Sự phục hồi và phát triển phụ thuộc vào việc quản lý nợ một cách công bằng và bền vững, đầu tư lớn vào các Mục tiêu phát triển bền vững và chuyển đổi hệ thống tài chính quốc tế trở nên công bằng và linh hoạt hơn”./.