Nội dung tọa đàm 'Phát triển bền vững đối tượng tham gia BHYT'
Vào 15h30' ngày 25/6, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức tọa đàm trực tuyến 'Phát triển bền vững đối tượng tham gia BHYT'.
Các vị khách mời gồm ông Bùi Sỹ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội; ông Phạm Lương Sơn - Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam.
Sau đây là nội dung cuộc tọa đàm:
Thưa hai vị khách mời, hai ông có thể khái quát lại một lần nữa vai trò, tầm quan trọng của BHYT đối với người dân Việt Nam để khán giả có cái nhìn tổng quan hơn được không?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Có thể nói đến thời điểm này, độ bao phủ BHYT của chúng ta đã đạt đến 89%. Đây là sự nỗ lực và cố gắng rất cao và rất quyết liệt của Chính phủ. Chúng ta đi trước Nghị quyết của Trung ương về thực hiện chính sách bao phủ BHYT. Rõ ràng là người dân của chúng ta đã được tham gia vào các chính sách BHYT nâng cao sức khỏe nhân dân và điều này khẳng định chủ trương hết sức đúng đắn, chuyển nhận thức từ bảo hiểm xã hội tự nguyện sang bảo hiểm xã hội bắt buộc. Và người dân thấy rằng đây là một chính sách đem lại lợi ích cao nhất đối người dân trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Chúng ta biết BHYT là một chính sách có tính chất chia sẻ chất lượng cao. Đạt được thành quả như vậy chính là sự quyết tâm và chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và tổ chức triển khai thực hiện của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chúng ta cũng phải đánh giá cao vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị và chính quyền các địa phương, chúng ta mới được có được kết quả như hôm nay.
Ông Phạm Lương Sơn: Với tư cách là cơ quan được Chính phủ giao tổ chức thực hiện chính sách BHYT, tôi xin bổ sung một khía cạnh thôi. BHYT cũng như là các loại hình bảo hiểm khác tuân theo nguyên lý quản lý và chia sẻ rủi ro. Vấn đề ở đây là cái quản lý rủi ro trong lĩnh vực y tế nó mang một ý nghĩa nhân văn một cái tầm quan trọng hết sức lớn, bởi vì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người dân và cho chính bản thân mình là rất chính đáng. Sau 27 năm tham gia BHYT, nhiều người đánh giá BHYT như phao cứu sinh để giúp người dân thoát khỏi bẫy nghèo y tế. Chúng ta hình dung, nhu cầu khám chữa bệnh càng tăng, chi phí ngày càng lớn, công nghệ ngày càng cao thì đòi hỏi phải có sự chung tay của cả cộng đồng, mà BHYT chính là sự chung tay đóng góp của cả cộng đồng chung tay với Đảng, nhà nước để chăm lo cho sức khỏe nhân dân cũng như sức khỏe của chính bản thân mình. Một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh rằng BHYT giúp quản lý rủi ro, giúp cho người dân tránh bẫy nghèo y tế, nên rất rất nên tham gia và cần tích cực tham gia vì cộng đồng và vì chính mình.
Thưa ông, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 90% dân số. Vậy tính đến thời điểm hiện nay, số lượng người tham gia BHYT đạt bao nhiêu % thưa ông? Số người tham gia tập trung chủ yếu ở nhóm đối tượng nào?
Ông Phạm Lương Sơn: Theo số liệu thống kê đến 5/2009 cả nước chúng ta đã có 84,5 triệu người dân có thẻ BHYT và đã đạt được tỉ lệ bao phủ là 89%. Có thể nói rằng hiện nay các nhóm đối tượng là người lao động đã tham gia BHYT trên 90% một con số rất đáng khích lệ. Nhóm người hưu trí, mất sức lao động, bảo trợ xã hội thì 100% đã tham BHYT với khoảng 3,1 triệu người có thẻ BHYT. Nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ bao gồm có hộ cận nghèo, HSSV cũng đã có cái tỷ lệ tham gia xấp xỉ 100%. Một điều mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là nhóm thứ 5, là nhóm hộ gia đình mà trước đây được tham gia BHYT dưới hình thức tự nguyện, từ ngày Luật BHYT sửa đổi năm 2014 thì chuyển thành đối tượng tham gia BHYT bắt buộc nhưng theo hình thức là hộ gia đình, thì đến tháng 5/2019 đã có trên 17 triệu người tham gia. Đây là con số mà chúng tôi nghĩ rằng nó thể hiện sự quyết tâm cao độ của cả hện thống chính trị cũng như là sự quan tâm người dân trong quá trình tham gia BHYT.
Thưa ông, BHYT học sinh, sinh viên là BHYT bắt buộc. Vậy tại sao tính đến thời điểm hiện nay vẫn còn khoảng 1,3 triệu học sinh, sinh viên chưa tham gia BHYT?
Ông Phạm Lương Sơn: Theo thống kê từng tháng thì con số là 1,3 triệu học sinh chưa tham gia BHYT, đến hiện nay đã giảm đáng kể. Tôi muốn nhắc lại một chút là quá trình tham gia BHYT của HSSV cũng giống như hộ gia đình, nó chuyển đổi từ BHYT tự nguyện sang BHYT bắt buộc và HSSV có đặc thù là các em có thể tham gia tại nhà trường hoặc có thể tham gia theo hộ gia đình, có thể là học sinh do cha mẹ đóng nhưng cũng có thể là nhóm đối tượng là người hộ gia đình cận nghèo, là người nghèo..
Năm 2016 thì có khoảng 15,9 triệu sinh tham gia BHYT, tỷ lệ này là hơn 92,5% đến năm 2017 chúng ta đã có trên 16 triệu chiếm trên 93% và thống kê của chúng tôi đến năm 2018 và đặc biệt đến tháng 4/2019 thì là đã có trên 17 triệu học sinh tham gia BHYT chiếm hơn 94%. Và như vậy là còn khoảng 6% nhóm đối tượng HSSV chưa tham gia BHYT, chiếm gần một triệu HSSV. Đây cũng là điều mà chúng tôi cũng đang suy nghĩ và trăn trở để tìm giải pháp, bởi HSSV là một trong các nhóm đối tượng mà mục tiêu phấn đấu là phải đạt nhanh, đẩy nhanh tỷ lệ bao phủ đến 100% theo chỉ đạo Chính phủ cũng như theo mong muốn, những quyết tâm chính trị của cả hệ thống.
Ông có đánh giá, nhận xét như thế nào về con số mà ông Sơn vừa nêu ra tính đến thời điểm hiện nay?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Tôi thấy đáng mừng và phấn khởi bởi chúng ta đẩy nhanh được tốc độ bao phủ trong HSSV. Nhưng mà tôi phải nhấn mạnh một ý rất quan trọng, HSSV là lực lượng nòng cốt, là thế hệ trẻ chuẩn bị nguồn nhân lực trong tương lai, nếu chúng ta lại không thực hiện BHYT bao phủ tất cả HSSV thì có một vấn đề là về rèn luyện tư tưởng tác phong của thế hệ trẻ của chúng ta, không chỉ là tham gia bảo hiểm xã hội đem lại lợi ích cho cá nhân HSSV đâu, mà nó còn thể hiện trách nhiệm của cá nhân mình đối với cộng đồng và đối với xã hội. Cho nên dù có một ít tỷ lệ HSSV không tham gia BHYT cũng là một điều chúng ta phải suy nghĩ. Tuy nhiên ở đây có mấy vấn đề chúng ta phải lưu ý tại sao nó bao phủ không nhanh. Thứ nhất, chúng ta chuyển từ tự nguyện sang bắt buộc và theo hộ gia đình. HSSV chưa tham gia vì chính sách của chúng ta chưa cởi mở. Ví dụ, các cháu HSSV tham gia theo mô hình hộ gia đình thì hãy cho các cháu tham gia để được đảm bảo yêu cầu là từ hộ khẩu thứ ba trở đi là được giảm, và đến thứ tư thứ năm là hoàn toàn có thể được miễn giảm. Đây là chính sách tốt, những chúng ta chưa thực hiện tốt chính sách này.
Thứ 2, rõ ràng trong hệ thống giáo dục của chúng ta, trong nhà trường của chúng ta công tác tuyên truyền giáo dục vận động và làm rõ cho các cháu HSSV biết được mục đích ý nghĩa quan trọng của tham gia BHYT, để chăm lo sức khỏe cho các cháu. Tôi thấy rất cảm động khi có những cháu HSSV đi khám bệnh chữa bệnh mà nhà nước, BHYT phải trả đến bạc tỉ. Điều này rất quan trọng, chúng ta đóng thì rất thấp mà hưởng quyền lợi rất cao. Cho nên giáo dục tuyên truyền để cho HSSV của chúng ta làm chuyển biến nhận thức là những điều hết sức quan trọng và đây không phải là trách nhiệm cá nhân mà còn phải thể hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng.
Vấn đề cuối cùng là rõ ràng trong cách thức tổ chức triển khai thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa bảo hiểm xã hội Việt Nam với nhà trường với ngành giáo dục đào tạo để chúng ta làm sao không nên để cho bất kỳ một HSSV nào không tham gia vào một hệ thống an sinh xã hội tốt đẹp như BHYT. Tôi khuyến cáo rằng các em các cháu, nhà trường và BHXH Việt Nam phải cố gắng bao phủ cho hết.
Trong thời gian tới đây, BHXH Việt Nam dự định sẽ triển khai các biện pháp gì để khắc phục tình trạng trên?
Ông Phạm Lương Sơn: Bổ sung thêm một số ý kiến sau phát biểu của TS Bùi Sĩ Lợi về mặt nhận thức về mặt tuyên truyền, chúng ta còn hai cái yếu tố nữa mà chúng ta cần quan tâm là làm sao để nâng cao nhận thức của HSSV lên trong việc tham gia vào BHYT trong xã hội hiện nay. Trước hết là tâm lý là cậy sức khỏe với tuổi trẻ cho nên là chưa nhận thức được việc tham gia BHYT là rất cần thiết cho chính mình và cộng đồng những người xung quanh mình. Không thực hiện các nguyên tắc của nguyên lý là bảo hiểm khi khỏe bảo hiểm khi trẻ để hưởng thụ khi mà đã có tuổi và khi mà ốm đau bệnh tật. Vấn đề thứ hai là truyền thông làm sao để có một sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng hơn giữa cơ quan BHXH là tổ chức thực hiện với các cơ sở giáo dục.
Thưa ông Lợi, bên cạnh nhóm đối tượng học sinh, sinh viên thì tâm lý “chỉ tham gia BHYT khi có bệnh” của các hộ gia đình cận nghèo cũng là một vấn đề đang lo ngại. Phải chăng, mức đóng khi tham gia BHYT của nhóm đối tượng này là một vấn đề cần được xem xét hỗ trợ hơn nữa?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Nếu chúng ta làm tốt công tác tuyên tuyên truyền giáo dục vận động và để cho HSSV của chúng ta và phụ huynh biết được ý nghĩa thì chúng ta sẽ bao phủ rất là tốt. Nhóm mà tôi cho là khó khăn nhất chính là người dân ở các hộ gia đình kinh doanh tự do và đặc biệt là các hộ cận nghèo, hộ nông lâm ngư nghiệp, diêm nghiệp mà có mức thu nhập trung bình thấp. Tôi nghĩ rằng là chúng ta cũng phải tìm cách để hỗ trợ thêm nhưng cũng phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động để cho người lao động, người dân hiểu rằng sức khỏe vô cùng quan trọng. Trong các chính sách BHYT của đất nước chúng ta, tôi vẫn nói lại câu chuyện chúng ta phải xóa ngay cái tư tưởng trẻ mang sức khỏe đi kiếm tiền nhưng già thì mang tiền đi mua sức khỏe. Trên thực tế, hai ý nghĩa này nó không đồng thuận với nhau. Thế cho nên chúng ta phải làm sao để cho người dân nhận thức được phải có trách nhiệm đối với cộng đồng, trách nhiệm với chính bản thân mình, mà tôi cho là tham gia BHYT chính là thực hiện trách nhiệm nghĩa vụ của bản thân mình và không chỉ là trách nhiệm đối với cá nhân đâu, còn phải thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng. Anh tham gia BHYT nhưng anh không mong muốn rằng là anh được sử dụng các quỹ BHYT của anh mà anh dùng để chăm lo cho những người có hoàn cảnh khó khăn những người ốm đau nặng. Tại sao trước đây ngành BHYT, BHXH Việt Nam và ngành y tế rất lo về các câu chuyện lợi dụng trục lợi, một số người quanh năm đi khám sức khỏe để nhận phần chi trả từ quỹ BHYT vì là người ta không phải đóng tiền, người ta không có trách nhiệm. Nhưng khi người ta có đóng tiền thì người ta nghĩ rằng là đồng tiền của quỹ có phần đóng góp của mình cho nên mình cũng phải tiết kiệm như thế nào đó để cho nó sinh lời, để cho nó phát triển, để nó chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Điều đó rất là ý nghĩa, tôi nghĩ rằng chính sách BHYT của chúng ta là phải giáo dục, tuyên truyền để người dân thấy rằng trách nhiệm của mình.
Là cơ quan triển khai tuyên truyền, thực hiện các chính sách BHYT, BHXH; ông có thể chia sẻ một chút về tâm lý cũng như những băn khoăn, trăn trở của nhóm đối tượng này khi tiếp xúc với những thông tin về BHYT?
Ông Phạm Lương Sơn: Tôi rất tán đồng với những ý kiến phát biểu của TS Bùi Sĩ Lợi. Tôi chỉ bổ sung thêm một số ý kiến thế này. Thực ra cảnh báo về sự lựa chọn ngược của người dân khi tham gia BHYT ngay từ lúc là bảo hiểm tự nguyện đã được BHXH VN cảnh báo rất lâu rồi. Và đó là nguyên nhân căn bản dẫn đến sức ì, trông chờ vào sự bao cấp của một bộ phận không nhỏ người dân vẫn tồn tại, vì vậy chúng ta truyền thông ngoài việc là phải tăng cường hơn nữa tiếp cận dịch vụ y tế, chất lượng dịch vụ y tế thì cần xây dựng chế tài, điều kiện để nâng cao hơn nữa tính cộng đồng khi tham gia BHYT. Chúng tôi nhớ rằng là khi mà làm bảo hiểm tự nguyện những năm 1999 đến năm 2000, luôn luôn có một điều kiện là 100% thành viên hộ gia đình cũng như là phải có một tỷ lệ nhất định các hộ gia đình trên địa bàn tham gia. Hiện nay, chúng tôi đang tích cực kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội để chúng ta đưa ra những điều kiện không cực đoan, không chặt chẽ quá để hạn chế người dân tham gia BHYT, nhưng đồng thời nó cũng là một giải pháp để hạn chế tình trạng lựa chọn ngược, chỉ người yếu mới tham gia BHYT, ốm đau bệnh tật mới tham gia BHYT và chúng tôi coi đó là một hiện tượng trục lợi ngay từ khi tham gia.
Có ý kiến cho rằng: Chất lượng KCB tại tuyến cơ sở hiện nay còn nhiều hạn chế, đội ngũ y bác sỹ ở các tuyến xã, huyện còn thiếu, vì vậy không đủ sức thu hút người dân tham gia KCB bằng BHYT. Quan điểm của ông về ý kiến này như thế nào?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Nói một cách khách quan, ngành y tế đã có một bước tiến dài trong lịch sử. Từ khi chúng ta thực hiện chính sách BHYT, quá trình khám chữa bệnh, nâng cao chất lượng, tinh thần trách nhiệm phục vụ bệnh nhân tốt lên nhiều. Nhưng so với nhu cầu của xã hội, so với yêu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương, ở một khía cạnh khác, chúng ta chưa đáp ứng được mong muốn, ý chí của nhân dân. Chính vì điều đó, có những người không muốn tham gia BHYT và cho rằng khi ốm mới đến các tuyến cơ sở y tế và không dùng BHYT có khi tốt hơn dùng BHYT.
Hiện nay, các cơ sở y tế từ tuyến tỉnh đến trung ương trở lên tương đối tốt và đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nhưng điều cốt lõi khiến người dân chưa tin tưởng vào BHYT là từ tuyến huyện xuống tuyến xã có vấn đề. Bởi không được nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và điều kiện chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là tuyến cấp xã, phường, thị trấn. Chăm sóc sức khỏe nhân dân là thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu, cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu gồm 3 cơ quan: bệnh viện trung tâm y tế cấp huyện; trạm y tế xã, phường, thị trấn; mô hình y tế tư nhân phục vụ cho nhân dân ở tuyến huyện, tuyến xã. Nhưng các tuyến này không đáp ứng được yêu cầu. Chúng ta mới đáp ứng được yêu cầu là các bệnh tật rất đơn giản. Chính vì lẽ đó, dẫn đến vượt tuyến, quá tải bệnh viện tuyến trên. Điều này không đúng với tinh thần Nghị quyết của Trung ương là chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Chúng ta phải điều chỉnh chính sách, chính sách này phải điều chỉnh từ chính sách tài chính y tế và phải quan tâm đến tài chính y tế cơ sở. Chúng tôi rất nhiều lần đi giám sát, đến các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, đồng bào của chúng ta rất khó khăn. Bệnh tật rất nặng, nhưng chuyển lên tuyến trên rất khó khăn, do giao thông, điều kiện, kinh phí, nguồn lực. Vì vậy chúng ta phải có cách thức để nâng cao chất lượng tuyến y tế cơ sở, bao gồm bệnh viện tuyến huyện, quận, trạm xá xã và phát triển mô hình y tế tư nhân, để xã hội hóa và người dân chúng ta phải được đảm bảo sức khỏe.
Chúng ta đã từng đánh giá kết quả công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo tham gia BHYT nhưng thực ra là dồn quỹ để chăm sóc sức khỏe cho tuyến trên. Đây là vấn đề rất đáng lưu ý và chúng ta đã điều chỉnh được vấn đề này. Tôi cho rằng con đường, cách thức của chúng ta phải bao phủ được chất lượng cho tuyến cơ sở. Điều này sẽ mang lại lòng tin cho người dân đối với BHYT.
Thưa ông Phạm Lương Sơn, ông có chia sẻ gì về vấn đề này?
Ông Phạm Lương Sơn: Định hướng phát triển cho y tế cơ sở đang là một trong những mục tiêu, chủ trương của Đảng, Nhà nước, cũng là muc tiêu quyết liệt của ngành y tế và BHXH Việt Nam. Trong thời gian qua, rất nhiều cơ chế, chính sách được thay đổi trong định hướng hướng tới cơ sở. Trước hết về cơ chế tài chính, Nghị định 146/2018 đã mở rộng về cơ chế tài chính để đủ nguồn lực cơ bản cho y tế xã, y tế huyện có thể đảm nhiệm được đúng chức năng nơi quản lý chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân nói chung và người có thẻ BHYT nói riêng.
Thứ hai đang có chủ trương và tiến hành quyết liệt việc đưa bệnh mãn tính không lây nhiễm, lập hồ sơ sức khỏe để quản lý tại các trạm y tế xã. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, BHXH Việt Nam cũng như ngành y tế hiện nay đang rất tích cực để những bệnh không lây nhiễm, bệnh mãn tính, trong đó có ung thư, đặc biệt là tăng huyết áp và tiểu đường sẽ được quản lý và điều trị ở tuyến cơ sở. Y tế cơ sở không chỉ là y tế tuyến huyện, phải hướng tới y tế xã.
Tuy nhiên hiện nay đang có một bất cập, đó là trạm y tế xã đang thực hiện rất nhiều những nhiệm vụ khác nhau, từ y tế dự phòng đến vệ sinh môi trường trong điều kiện nguồn nhân lực y tế tuyến xã chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng. Vì vậy song song với những ý kiến của TS Bùi Sĩ Lợi, phải đầu tư để nâng cấp, hoàn thiện hơn cơ sở vật chất. Nói đến cơ sở vật chất là nói đến xây dựng trạm y tế xã, phòng bệnh, tăng diện tích tăng và khang trang hơn. Các trang thiết bị cơ bản, theo đúng định hướng Bài toán về nhân lực, y tế theo định hướng quản lý như mô hình bác sĩ gia đình được Bộ y tế xác định là một chủ trương và đang tích cực triển khai. Song song với đó là các cơ chế tài chính từ BHYT, các danh mục, phạm vi chuyên môn đang được ngày càng hoàn thiện hơn. Chúng ta hy vọng sự tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ y tế cơ bản sẽ được thực hiện ngay ở tuyến ý tế cơ sở. Đây là một hình thức rất hữu hiệu để phân luồng bệnh nhân, giảm tải sự quá tải ở tuyến trên. Đồng thời về mặt cơ chế chính sách, chính sách thông tuyến là một cơ chế rất thuận lợi cho người dân. Nhưng đối với y tế cơ sở, đó chính là một thách thức khó khăn. Bởi đó là điều kiện rất cởi mở để người dân bỏ qua y tế xã. Thậm chí bỏ qua y tế huyện gần nhà để đến các tuyến y tế cơ sở khác. Chúng ta cần có những điều chỉnh để tạo thông thoáng cơ chế cải cách hành chính một cách tích cực hơn, đồng thời tạo điều kiện để giúp cho nhân viên y tế tuyến cơ sở cơ một số lượng bệnh nhân tiếp cận và bệnh nhân được tiếp cận với dịch vụ y tế tuyến xã thì mới đảm bảo được mục tiêu đề ra.
Ông Bùi Sĩ Lợi: Chúng ta phải đưa ngay các bệnh có tính chất là mãn tính không lấy nhiễm, giao cho các trạm y tế cấp xã, cấp thuốc quản lý sức khỏe để người dân không phải lên tuyến huyện. Điều này cực kỳ quan trọng. Ngành y tế đang phát triển mô hình bác sĩ gia đình tôi cho là đúng. Điều quan trọng là chúng ta phải điều chỉnh chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường cho tuyến huyện và tuyến xã để đảm bảo sức khỏe cho người dân.
Thứ hai là phải tính toán một mô hình, thông tuyến của chúng ta như vậy rất là tốt nhưng cũng nên tổng kết, đánh giá lại. Bởi vì sao có những bệnh rất đơn giản, người dân lại bỏ xã lên huyện, bỏ huyện lên tỉnh. Nếu chúng ta làm được mô hình bác sĩ gia đình, bác sĩ đó hoàn toàn có quyền tư vấn, giới thiệu không phải lên tuyến y tế huyện, hoặc chỉ ở tuyến y tế xã… Điều này hết sức quan trọng. Người dân hiện nay đang có ý kiến việc chuyển tuyến giữa tuyến huyện lên tuyến tỉnh, từ tỉnh lên Trung ương rất khó khăn. Nếu có hệ thống bác sĩ gia đình sẽ giải quyết được bài toán này. Ngành BHXH và ngành y tế phải nghiên cứu vấn đề này rất khẩn trương để áp dụng mô hình này.
Vấn đề giải quyết thanh toán BHYT có lẽ luôn là vấn đề trăn trở nhất đối với người dân. Kể cả khi Nghị định 146/2018/NĐ-CP đã được Chính phủ ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/12/2018 thì vẫn gặp phải sự mâu thuẫn giữa 2 mẫu giấy chuyển tuyến khám, chữa bệnh BHYT theo quy định cũ và mới của Thông tư số 39/2018/TT-BYT hay như việc xác định tổng mức thanh toán khám, chữa bệnh. Vấn đề này sẽ được phối hợp giải quyết như thế nào, thưa ông?
Ông Phạm Lương Sơn: Khi Nghị định mới của Chính phủ ban hành, Bộ Y tế có ban hành Thông tư hướng dẫn. Trong quá trình triển khai thực hiện, đúng là có một thực tế. Hiện nay đang tồn tại hai mẫu giấy chuyển viện có trong Thông tư của Bộ Y tế ban hành. Quá trình thực tế tiếp thu phản ánh của người dân và các cơ sở khám chữa bệnh, phải xác nhận ngay thời kỳ ban đầu (từ tháng 12/2018 đến tháng 1,2/2019) đã tạo ra một số khó khăn bất cập cho phía người dân khi tham gia và sự lúng túng của cơ quan BHXH lẫn cơ sở khám chữa bệnh khi giải quyết đảm bảo quyền lợi cho người dân. Chúng tôi đã phối hợp với Bộ Y tế để có một thông báo thống nhất. Theo đó, trong thời gian chờ Bộ Y tế ban hành mẫu giấy chuyển tuyến thống nhất thì cơ sở khám chữa bệnh, cơ quan BHXH vẫn phải tiếp nhận cả hai mẫu giấy chuyển tuyến và đối chiếu với cơ sở dữ liệu của ngành BHXH để đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho người dân. Tôi nghĩ rằng những khó khăn này hiện nay đang được khắc phục.
Việc giải quyết thủ tục, giấy tờ khi thanh toán BHYT và thời gian đợi được giải quyết thanh toán khá lâu nhất là đối với những bệnh nhân chuyển tuyến. Chính điều này đã góp phần làm giảm bớt sức hút của BHYT đối với người dân, khi nhắc đến BHYT nhất là đối với những người khỏe mạnh, họ thường nhớ đến mặt tiêu cực nhiều hơn tích cực. Quan điểm của ông về ý kiến này như thế nào?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Theo tôi là có một phần. Cải cách thủ tục hành chính của đất nước cực kỳ quan trọng. Khi người dân gặp ách tắc ở điểm nào đó, dù làm tốt cũng không lấy lại được niềm tin của người dân. Hiện nay hệ thống BHXH có hệ thống công nghệ thông tin. Tại sao chúng ta không có những công nghệ để người dân không cần đến thẻ.
Công nghệ của chúng ta phát triển, chúng ta có thể đổ hết dữ liệu của các cơ sở khám chữa bệnh vào trung tâm công nghệ của BHXH Việt Nam. Nói tóm lại thủ tục hành chính phải đi đầu trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, trong thực hiện chính sách an sinh xã hội. Làm sao để người dân không bao giờ vướng mắc trong thủ tục, không ca thán mất niềm tin của người dân đối với BHXH và BHYT. Chúng ta khám bệnh rất tốt, thanh quyết toán tốt. Nhưng thủ tục hành chính gây bức xúc cho người dân. Cải cách thủ tục hành chính rất quan trọng và Thủ tướng đang chỉ đạo vấn đề này rất quyết liệt. Chúng ta phải cố gắng khắc phục.
Trước khi Nghị định 146/2018/N Đ-CP có hiệu lực, các trạm y tế xã bị khống chế tỷ lệ quỹ khám chữa bệnh BHYT được sử dụng dưới 20%, điều này đã dẫn đến việc chuyển tuyến ồ ạt dù là bệnh nhẹ. Sau khi Nghị định 146 có hiệu lực, tình trạng này đã được cải thiện như thế nào, thưa ông?
Ông Phạm Lương Sơn: Đang có sự hiểu lầm đáng tiếc liên quan đến sự khống chế tỷ lệ 20% của quỹ ngoại trú của trạm y tế xã. Mục tiêu là dành 20 % của quỹ ngoại trú trạm y tế xã để phục vụ cho việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Khi vượt ra khỏi khả năng chuyên môn của trạm y tế xã thì chuyển lên cơ sở tuyến trên. Đây là một trong những giải pháp về mặt chuyên môn để đảm bảo chất lượng dịch vụ, đảm bảo việc khám chữa bệnh cho người dân được tốt nhất.
Sau khi khảo sát và sửa Nghị định 105/2014 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT sang Nghị định 146/2018, thay đổi phương thức phân bổ, thanh quyết toán, chi phí khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế, trong đó có cả y tế tuyến xã. Ở trên chúng ta có đề cập đến tổng mức thanh toán. Tổng mức thanh toán căn cứ vào chi phí thực tế của năm trước được gián định vào quyết toán, cộng với những chi phí phát sinh hợp lý theo đúng quy định của Luật BHYT. Cơ chế đó tạo điều kiện cho các cơ sở y tế, kể cả y tế tuyến xã nếu phát triển được dịch vụ y tế. Tôi phải nhấn mạnh phát triển dịch vụ y tế, cung cấp dịch vụ y tế trong phạm vi chuyên môn được Bộ Y tế cho phép hoặc các cơ sở y tế ở địa phương cho phép. Để ngoài việc phát triển dịch vụ y tế thì phải đảm bảo phạm vi chuyên môn và khả năng cung cấp dich vụ y tế của trạm y tế xã. Cho đến nay, đã có những bước tiến triển rất tốt ở trạm y tế xã, ngoài việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh cơ bản như tôi có chia sẻ, trạm y tế xã đang hướng tới việc quản lý, chăm sóc, điều trị các bệnh mãn tính không lây nhiễm. Một trong những căn bệnh mà Việt Nam đang được đánh giá là quốc gia có tỷ lệ khá đông. Một nguy cơ nữa là chúng ta đang quản lý và điều trị bệnh đó ở tỷ lệ rất hạn chế.
Để thu hút người dân tham gia BHYT, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã có chỉ đạo Việt Nam triển khai xây dựng các gói BHYT nhiều mệnh giá. Vậy việc này đã được triển khai đến đâu rồi thưa ông?
Ông Phạm Lương Sơn: Nói đến vấn đề gói dịch vụ y tế phải nói đến gói dịch vụ y tế cơ bản. Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 39 Quy định gói dịch vụ y tế cơ bản ở trạm y tế xã. Chúng tôi đang tích cực tham gia với Bộ Y tế để xác định quyền lợi cơ bản trong gói dịch vụ y tế đó. Tuy nhiên phải xác định BHYT xã hội do Đảng, Nhà nước tổ chức thực hiện định hướng để cung cấp những quyền lợi cơ bản nhất, đáp ứng được nhu cầu cơ bản, nhu cầu của số đông. Để đảm bảo như cầu của những người có yêu cầu được cung cấp dịch vụ y tế tốt hơn, đắt tiền hơn phải cần có các gói y tế, gói BHYT bổ sung. Điều này đã được thể hiện trong Nghị quyết của Trung ương Đảng, Chỉ thị của Chính phủ, đặc biệt sự chỉ đạo rất quyết liệt của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam.
Tuy nhiên phải nhìn nhận một thách thức giữa BHYT xã hội và BHYT thương mại có sự khác biệt. Một trong những sự khác biệt đó là đối với BHYT thương mại phải tính toán, làm sao để có lợi nhuận. Và xu hướng để xác định gói y tế bổ sung đó phù hợp hơn với BHYT thương mại. Để thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng cũng như chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Y tế, BHXH Việt Nam đang tiến hành, xây dựng những quy định, quy trình để kết nối liên thông giữa BHYT xã hội do BHXH Việt Nam được giao tổ chức thực hiện với BHYT thương mại do các doanh nghiệp y tế thực hiện. Chúng tôi hy vọng khi có sự kết nối đó, người dân sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn tham gia những gói BHYT do các tổ chức, doanh nghiệp đưa ra. Với BHYT cơ bản do BHXH cung cấp, đó là một trong những giải pháp rất tốt để đáp ứng được ngày càng tốt hơn như cầu không những của người dân về mặt cơ bản mà còn của một số những người có nhu cầu được cung cấp gói dịch vụ cao hơn.
Ông có góp ý gì cho công việc này không?
Ông Bùi Sĩ Lợi: BHXH Việt Nam phải đảm bảo bằng được gói dịch vụ y tế cơ bản. Người có điều kiện phải nới khung này ra để họ đóng góp, tích vào quỹ BHYT cao hơn, được hưởng lợi cao hơn do chính các cơ sở y tế chăm sóc. Cần phải có liên thông đó. BHXH Việt Nam đưa ra những chính sách cùng với BHYT và đề nghị cần thiết thì sửa luật. Điều này rất đúng với định hướng. Tôi cho rằng chúng ta phải cố gắng thực hiện xây dựng các gói BHYT nhiều mệnh giá, bởi rất nhiều người dân mong muốn như vậy. Hiện nay chúng ta có đầy đủ điều kiện để chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân trong các điều kiện hết sức thuận lợi và có điều kiện để nâng chất lượng khám chữa bệnh. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần làm sớm càng tốt. Thứ nhất sẽ đảm bảo được cân đối quỹ, thứ hai là đảm bảo được quyền lợi của người dân tham gia, người dân mong muốn có được chăm sóc tốt hơn. Và hiện nay trong thực tiễn, nhiều bệnh nhân đến bệnh viện và yêu cầu được chăm sóc dịch vụ y tế theo yêu cầu. Tại sao chúng ta không làm điều này để quỹ và chăm sóc sức khỏe của chúng ta tốt hơn.
Ông Phạm Lương Sơn: Chúng tôi vẫn đang triển khai, tuy nhiên cần phải xây dựng một quy trình, một quy định để ngoài việc xây dựng nhiều mệnh giá khác nhau phải có những gói quyền lợi tương ứng với mệnh giá đó. Điều khó nhất khi chúng ta xây dựng mệnh giá thì phải tính toán được số lượng người tham gia vào gói đó để đảm bảo nguyên tắc quỹ BHYT được cân đối. BHXH Việt Nam đang rất tích cực nghiên cứu. Giải pháp trước mắt là nên liên thông kết nối với các BHYT thương mại như BHYT chỉ chuyên về chữa bệnh ung thư,… Đây là những giải pháp trước mắt kết hợp với giải pháp lâu dài, chúng ta sẽ thực hiện được chỉ đạo của Chính phủ.
Ông Bùi Sĩ Lợi: BHXH Việt Nam phối hợp với Bộ Y tế phải nghiên cứu cả hai vấn đề, không chỉ mỗi gói dịch vụ y tế nhiều mệnh giá.
Thứ hai cần phải tổ chức đánh giá chính sách BHYT của chúng ta cùng chi trả. Trước đây, chúng ta bỏ bớt cùng chi trả của một số nhóm đối tượng. Tôi nghĩ phải tổng kết đánh giá lại. Và nếu có một phần cùng chi trả chính là tăng cường thêm trách nhiệm của người dân đối với chính sách BHYT và đó là một trong những nguyên nhân để người dân cùng tham gia bảo đảm quỹ này tồn tại một cách bền vững.
Thứ ba là chống được trục lợi và lạm dụng. Quan trọng là chúng ta phải bảo tồn quỹ và kiểm soát tài chính công khai, minh bạch quỹ BHYT.
Bên cạnh nhóm đối tượng là học sinh, sinh viên và hộ gia đình cận nghèo hay thoát nghèo mà chúng ta đề cập đến từ đầu chương trình, theo ông cần phải tập trung phát triển BHYT ở nhóm đối tượng nào khác nữa để có thể nâng và phát triển bền vững đối tượng tham gia BHYT?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Có một nhóm là nhóm lao động thuộc khu vực phi chính thức và một số nhóm doanh nghiệp mà chủ sử dụng lao động có sử dụng lao động nhưng không có quan hệ lao động. Có một bộ phận người lao động làm công ăn lương nhưng không tham gia hệ thống BHXH, BHYT. Theo báo cáo chính thức điều tra của chúng tôi, có 14,7 lao động tham gia BHXH, BHYT. Tuy nhiên vẫn còn 9 triệu lao động có quan hệ tiền lương nhưng không tham gia BHXH, đồng nghĩa với việc không tham gia BHYT. Đối tượng này chúng ta phải khuyến khích và phải có các giải pháp để thu hút đối tượng.
Trong nhóm đối tượng này có một bộ phận thuộc đối tượng tham gia BHXH, BHYT bắt buộc vì có quan hệ tiền lương. Trong quy định của chúng ta một tháng có hợp đồng lao động phải tham gia BHXH và BHYT bắt buộc. Rõ ràng nếu không tham gia là vi phạm pháp luật. Chúng ta phải xử lý điều này. Đối với HSSV, hộ cận nghèo, hộ gia đình chúng ta phải có những giải pháp, nhưng tôi cho rằng nhóm lao động thuộc khu vực phi chính thức là nhóm quyết định quan trọng. Và chính nguồn thu vào quỹ BHYT của nhóm này rất cao. Chúng ta phải nghiên cứu xem xét. Để mục tiêu của chúng ta là phải bao phủ BHYT toàn dân và BHXH toàn dân thực hiện theo Nghị quyết 28 của Trung ương. Toàn dân là lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có tham gia vào thị trường lao động.
Thưa ông Phạm Lương Sơn, đối với nhóm lao động thuộc khu vực phi chính thức BHXH Việt Nam đã có những tuyên truyền triển khai chính sách như thế nào?
Ông Phạm Lương Sơn: Công tác tuyên truyền để mọi tầng lớp nhân dân hiểu đủ, hiểu đúng chính sách BHYT không loại trừ bất cứ một nhóm đối tượng nào. Vấn đề quan trọng chúng ta phải có những hình thức, nội dung tuyên truyền sát với nhóm đối tượng đích. Và trong công tác tuyên truyền BHXH Việt Nam luôn xác định những nhóm đối tượng và những nội dung phù hợp.
Ở nhóm I phải tuyên truyền để người sử dụng lao động, người lao động hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình, khi đó mới khắc phục được tình trạng trốn đóng, nợ đóng, không đảm bảo quyền lợi theo quy định của luật. Đây là phát triển bền vững cho nhóm đối tượng người sử dụng lao động 1 người lao động.
Nhóm đối tượng do quỹ BHYT chi trả, phải xác định đây là một quyền lợi, một ưu việt của luật, chính sách BHXH đưa đến. Từ đó phải xác định, dù không phải cùng chia sẻ nhưng khi nhận thức được, phải vận động gia đình tham gia. Để không chỉ là vấn đề thụ hưởng chính sách từ trợ cấp BHXH, mà còn trách nhiệm đối với cộng đồng.
Giải pháp tuyên truyền cho thị trường lao động phi chính thức chúng tôi đã triển khai rất nhiều hình thức, biện pháp đa dạng, quyết liệt và có những tiến triển nhất định trong quá trình tham gia như số liệu ở trên đã phản ánh. Riêng hộ gia đình, trong hộ gia đình có nhiều người lao động thuộc khu vực phi chính thức, có trên 17 triệu người tham gia. Đây là một tín hiệu đáng mừng. Quan trọng trong công tác tuyên truyền phải làm khắc phục được tình trạng lựa chọn ngược trong tham gia BHYT.
Để đạt được mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân và thực hiện BHYT toàn dân cần cần phải có các giải pháp đồng bộ. Vậy những giải pháp nào được BHXH Việt Nam thực hiện trong thời gian tới đây, thưa ông?
Ông Phạm Lương Sơn: Các giải pháp đồng bộ luôn luôn là mục tiêu đặt ra để chúng ta hoàn thành được bao phủ BHYT toàn dân. Chúng tôi đã chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố thường xuyên báo cáo, xin ý kiến của các cấp ủy chính quyền địa phương để cả hệ thống chính trị địa phương vào cuộc từ Tỉnh ủy, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, phải xác định đây không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành BHXH mà còn là nhiệm vụ an sinh xã hội của đất nước, trong đó BHYT là một trụ cột. Đây là giải pháp không chỉ là về mặt chính trị, trong thời gian qua đã có những hiệu quả rất tốt.
Vấn đề thứ hai, cần phải hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật, từ Nghị định, Thông tư và những quy định rất cụ thể về mặt chuyên môn để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế từ y tế cơ sở đến y tế chuyên sâu. Vấn đề này BHXH Việt Nam và BHXH các tỉnh đang phối hợp chặt chẽ với ngành y tế và các ngành liên quan để ngày càng hoàn thiện hơn những văn bản quy định đó.
Giải pháp thứ ba chúng tôi rất quan tâm đó là đẩy nhanh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình phục vụ. Hiện nay toàn bộ người tham gia BHYT được quản lý trên hệ thống công nghệ thông tin. Chúng tôi đã có cơ sở dữ liệu khá đầy đủ, khá chính xác. Đây là nền tảng để từ đó có những tiện ích, phần mềm trở lại phục vụ người dân, phục vụ các bệnh viện. Đồng thời phục vụ cho việc kiểm tra, giám sát hướng tới đảm bảo việc chi trả đúng đủ cho người dân.
Với những giải pháp đồng bộ chắc chắn chúng ta sẽ có một tương lai tốt hơn và mục tiêu bao phủ BHYT mang tính khả thi rất cao.
Quan điểm của ông như thế nào?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Tôi cơ bản đồng tình với ý kiến của Phó Tổng Giám đốc Phạm Lương Sơn, nhưng tôi chia sẻ thêm những vấn đề sau. Thứ nhất cần xem lại chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, mặc dù rất tốt nhưng rõ ràng có vấn đề. Phải làm thế nào để ngành y tế, cơ sở khám chữa bệnh của chúng ta phải đem lại được sự hài lòng của người dân. Chúng ta phải tự mình thu hút và tạo ra sự hài lòng của người dân đối với chính sách. Điều này rất quan trọng.
Thứ hai, chúng ta phải bám vào Nghị quyết của Trung ương, chính sách pháp luật. Hiện nay chính quyền địa phương đã vào cuộc với BHYT, BHXH nhưng ở chừng mực nhất định, nhất là lãnh đạo cấp xã, cấp huyện trở lên chúng ta chưa quan tâm nhiều. Trong quy định của pháp luật, Hội đồng nhân dân các cấp phải giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Thực ra là có giao nhưng không kiểm tra, giám sát, không đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện dẫn đến tình trạng có địa phương bao phủ gần hết, có địa phương lại không, có địa phương tỷ lệ bao phủ chậm.
Cuối cùng, trọng trách này không chỉ của ngành BHXH và y tế của đất nước, đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp. Chúng ta phải vào cuộc với tinh thần trách nhiệm trước hết là vận động đoàn viên, đội, hội viên của mình, thành viên của mình tham gia. Thứ hai là vận động thành viên khác, cơ quan khác, cho nhân dân để chuyển biến cả hệ thống chính trị. Chúng ta phải làm việc với tinh thần trách nhiệm nhằm chăm lo cho sức khỏe của nhân dân. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới nêu rất rõ về vấn đề này. BHYT chính là trụ cột, xương sống và quan trọng của tài chính y tế để chăm lo sức khỏe nhân dân. Đây là quan điểm của Đảng, Nhà nước. Thể hiện vai trò của một Đảng cầm quyền, vai trò của định hướng xã hội chủ nghĩa. Tôi mong rằng người dân thấy được trách nhiệm không phải cho bản thân mình, chăm lo sức khỏe cho mình mà trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội, và coi như sự đồng hành của đất nước để chúng ta chăm sóc sức khỏe nhân dân tốt nhất trong điều kiện có thể.
Ông Phạm Lương Sơn: Chúng ta đang hướng tới ngày 1/7 là ngày BHYT toàn dân theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ . Từ diễn đàn này, tôi rất mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm sâu sắc hơn của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể như ý kiến TS Bùi Sĩ Lợi chia sẻ. Đồng thời rất mong trên các mặt trận chúng tôi nhận được sự hỗ trợ, đồng hành của đông đảo người dân, các cơ quan thông tin đại chúng để công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân đối với việc tham gia BHYT được đẩy đủ, sâu sắc hơn và hướng tới phát triển chính sách BHYT ở Việt Nam một cách bền vững và đảm bảo được quyền lợi của cộng đồng tham gia BHYT. Đây là một trong những giải pháp tôi nghĩ rằng rất hiệu quả, hữu hiệu để góp phần chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân theo định hướng thị trường xã hội chủ nghĩa.