Nông lâm thủy sản xuất siêu gần 18 tỷ USD trong 10 tháng
Lũy kế 10 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 58,13 tỷ USD, nhập khẩu đạt 40,5 tỷ USD.

Ảnh minh họa: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông lâm thủy sản tháng 10/2025 đạt 10 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước (YoY); nhập khẩu đạt 4,04 tỷ USD, giảm 3,5% YoY.
Lũy kế 10 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 58,13 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ; nhập khẩu đạt 40,5 tỷ USD, tăng 11,5% YoY; xuất siêu 17,59 tỷ USD.
Về nhập khẩu, trong kỳ, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản đạt 24,9 tỷ USD, tăng 10% YoY; nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 3,66 tỷ USD, tăng 20,8% YoY. Kim ngạch nhập khẩu thủy sản cũng đạt 2,73 tỷ USD, tăng 30,7% YoY; lâm sản đạt 2,65 tỷ USD, tăng 15,2% YoY.
Kim ngạch nhập khẩu đầu vào sản xuất đạt 6,54 tỷ USD, tắng 4,7% so với 10 tháng đầu năm 2024; muối với 28,8 triệu USD, giảm 3,6% YoY.
Xét theo thị trường, Trung Quốc, Mỹ và Argentina là ba thị trường cung cấp các mặt hàng nông lâm thủy sản lớn nhất cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 9,8%, 9%, và 6,9%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị nhập khẩu nông lâm thủy sản từ Trung Quốc tăng 13,7%, Mỹ tăng 34,9% và Argentina tăng 4,3%.
Về xuất khẩu, 10 tháng đầu năm 2025, giá trị xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đạt 31,3 tỷ USD, tăng 15,5% YoY; sản phẩm chăn nuôi đạt 512 triệu USD, tăng 19% YoY.
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 9,31 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ; lâm sản đạt 14,9 tỷ USD, tăng 5,8% YoY; đầu vào sản xuất đạt 2,03 tỷ USD, tăng 31,9% YoY; muối đạt 9,5 triệu USD, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ.
Xét về thị trường, Trung Quốc chiếm 21,4% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam trong kỳ, đứng sau là Mỹ với 20,4% và Nhật Bản với 7%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Trung Quốc tăng 12%, Mỹ tăng 6,2% và Nhật Bản tăng 20,4%.
Về mặt hàng, trong kỳ, Việt Nam xuất khẩu 1,3 triệu tấn cà phê với giá trị 7,4 tỷ USD, tăng 13,5% về lượng và 61,8% về giá trị so với 10 tháng đầu năm 2024.
Kim ngạch xuất khẩu rau quả cũng tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước, lên 7,09 tỷ USD; thủy sản tăng 12,9% YoY, đạt 9,31 tỷ USD; .
Lượng và giá trị xuất khẩu hạt điều tăng lần lượt 2,2% và 18,6%, lên 624.400 tấn và 4,25 tỷ USD.
Sắn và sản phẩm từ sắn xuất khẩu trong kỳ đạt 3,4 triệu tấn, mang về 1,04 tỷ USD, tăng 61% về lượng và 9,3% về giá trị.
Trong khi đó, lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo lại giảm lần lượt 6,5% và 23,8%, đạt 7,2 triệu tấn và 3,7 tỷ USD. Chè xuất khẩu giảm 10,2% về lượng, đạt 109.200 tấn, kim ngạch cũng giảm 11,2% YoY, đạt 188,2 triệu USD.
Mặc dù lượng hạt tiêu xuất khẩu giảm 5,9%, còn 206.300 tấn nhưng giá trị lại tăng 25,8% YoY, lên 1,4 tỷ USD. Lượng cao su xuất khẩu cũng giảm 5,4% về lượng (đạt 1,5 triệu tấn) nhưng kim ngạch tăng 1,7% so với cùng kỳ, lên 2,57 tỷ USD.
Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi trong kỳ đạt 512,9 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 108,6 triệu USD, tăng 4,9%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 166,9 triệu USD, tăng 25,4%.
Trong kỳ, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng cà phê ước đạt 5653,1 USD/tấn, tăng 42,5% so với cùng kỳ. Giá xuất khẩu hạt điều cũng tăng 16,1% YoY, lên 6.806,4 USD/tấn; hạt tiêu tăng 33,7% YoY, đạt 6.774,1 USD/tấn; cao su tăng 7,6% YoY, đạt 1.761,7 USD/tấn.
Giá sắn và sản phẩm từ sắn lại giảm 32,1% so với cùng kỳ, còn 309,6 USD/tấn; gạo giảm 18,5% YoY, đạt 511 USD/tấn; chè giảm 1,1% YoY, đạt 1.723,4 USD/tấn.











