Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long trước thách thức biến đổi khí hậu
Xâm nhập mặn, sạt lở và nước biển dâng đang bào mòn sinh kế nông dân Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đòi hỏi giải pháp thích ứng để bảo đảm an ninh lương thực.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) từ lâu được mệnh danh là “vựa lúa, vựa cá, vựa trái cây” của Việt Nam. Vùng đất này đóng góp hơn 50% sản lượng lúa, tới 95% gạo xuất khẩu, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và gần 70% trái cây nhiệt đới của cả nước. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đang làm đảo lộn nhịp sản xuất. Mùa khô 2024–2025, mặn 4 phần nghìn đã xâm nhập sâu 50–60 km trên nhiều trục sông, ảnh hưởng hàng nghìn hecta lúa và cây ăn trái. Cùng lúc, sạt lở bờ sông, bờ biển diễn ra trên diện rộng, cuốn trôi đất sản xuất và khiến nhiều hộ dân phải di dời. Tình trạng này báo hiệu nông nghiệp ĐBSCL đang ở bước ngoặt, buộc phải chuyển đổi để thích ứng.

Hạn mặn đang ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL.
Thiệt hại ngày càng lớn, sinh kế bấp bênh
Thực tế vài năm gần đây cho thấy, mặn xâm nhập không còn là hiện tượng bất thường mà trở thành rủi ro thường trực. Vụ lúa Hè Thu 2025 ghi nhận năng suất giảm, chi phí sản xuất tăng, trong khi giá thu mua ổn định khiến nông dân thu lợi nhuận thấp.
Các vùng cây ăn trái đặc sản như sầu riêng, chôm chôm, bưởi da xanh ở dải ven biển Vĩnh Long mới ghi nhận hàng nghìn hecta bị thiệt hại do sạt lở và hạn mặn. Mỗi hecta sầu riêng mất trắng đồng nghĩa với nông dân thiệt hại hàng trăm triệu đồng, chưa kể nhiều năm chăm sóc mới có thể tái canh.
Nuôi trồng thủy sản cũng khó thoát vòng xoáy rủi ro. Ở các vùng tôm – lúa thuộc Cà Mau mới, khi độ mặn thay đổi đột ngột, tôm chết hàng loạt, nhiều hộ phải bỏ ao. Ngược lại, tại vùng ngọt hóa nuôi cá tra thuộc An Giang mới, nguồn nước ngọt khan hiếm khiến tỉ lệ dịch bệnh gia tăng. Sản lượng sụt giảm kéo theo chuỗi cung ứng cá tra, vốn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chịu áp lực lớn. Nông dân mất thu nhập, doanh nghiệp chế biến thiếu nguyên liệu, thị trường xuất khẩu bị ảnh hưởng.
Cùng lúc, sạt lở tiếp tục bào mòn quỹ đất sản xuất. Bộ Tài nguyên và Môi trường thống kê toàn vùng có trên 800 điểm sạt lở, với hơn 1.100 km bờ sông, bờ biển bị đe dọa. Tại Đồng Tháp mới, nhiều đoạn sông Tiền và sông Hậu bị xói lở, nuốt trôi cả nhà cửa, đường sá, buộc hàng nghìn hộ phải di dời khẩn cấp. Tại dải bờ biển Cà Mau mới, triều cường kết hợp sóng mạnh đã làm xói lở hàng chục km bờ biển mỗi năm. Thiệt hại kinh tế lên tới hàng nghìn tỷ đồng, nhưng tổn thất lớn nhất là mất đất sản xuất, làm suy giảm sinh kế của người dân.
Theo dự báo, nếu nước biển dâng 1 mét, gần 40% diện tích ĐBSCL có nguy cơ ngập, ảnh hưởng trực tiếp tới hơn 17 triệu người. Kịch bản này đặt ra câu hỏi sống còn: nông nghiệp vùng chín rồng sẽ đi đâu về đâu nếu không nhanh chóng thay đổi.

Nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch lúa.
Chuyển đổi và thích ứng: Con đường tất yếu
Trước những thách thức dồn dập, nhiều địa phương đã chủ động tái cơ cấu sản xuất. Mô hình “lúa – tôm” được mở rộng mạnh mẽ ở Cà Mau mới và An Giang mới, vừa tận dụng nước mặn để nuôi tôm mùa khô, vừa trồng lúa mùa mưa. Nhờ vậy, thu nhập hộ nông dân tăng gấp đôi, thậm chí gấp ba so với độc canh lúa. Ở Vĩnh Long mới, mô hình luân canh “lúa – hoa màu” cũng được nhân rộng, giúp giảm áp lực nước tưới, tăng hiệu quả sử dụng đất và đa dạng hóa sản phẩm.
Song song với chuyển đổi mô hình, đầu tư hạ tầng thủy lợi là giải pháp không thể thiếu. Công trình Cái Lớn – Cái Bé tại Kiên Giang cũ nay thuộc An Giang mới đã bảo vệ khoảng 300.000 ha đất sản xuất khỏi xâm nhập mặn. Các hồ chứa nước ngọt, kênh trữ nước liên vùng, cùng hàng loạt giải pháp “đón – xả” theo kỳ triều được triển khai, giúp chủ động hơn trong điều tiết nguồn nước. Dù vậy, các công trình này tiêu tốn chi phí lớn và đòi hỏi quản lý liên tỉnh chặt chẽ để tránh xung đột sử dụng nước.
Giải pháp phi công trình cũng ngày càng quan trọng. Việc trồng rừng ngập mặn ở các huyện ven biển Cà Mau mới và Vĩnh Long mới không chỉ giúp chắn sóng, giảm xói lở, mà còn tạo sinh kế từ nuôi thủy sản dưới tán rừng. Mô hình nông nghiệp sinh thái kết hợp cây – con – rừng đang chứng minh giá trị kép: vừa bảo vệ môi trường, vừa tăng thu nhập.
Công nghệ và khoa học là trụ cột cho thích ứng dài hạn. Các giống lúa chịu mặn như OM5451, ST24, ST25, cùng nhiều giống cây ăn trái được lai tạo để tăng khả năng chống chịu, đã giúp nông dân giảm thiệt hại. Hệ thống quan trắc mặn tự động, cảnh báo sớm qua điện thoại, các ứng dụng lịch gieo trồng dựa trên dữ liệu khí tượng thủy văn đang được áp dụng rộng rãi. Một số mô hình nông nghiệp thông minh tại Hậu Giang cũ và Đồng Tháp mới sử dụng cảm biến đo mặn, hệ thống tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước cho thấy hiệu quả rõ rệt.
Tuy nhiên, để các giải pháp phát huy tác dụng, cần sự phối hợp đồng bộ. Nhà nước phải giữ vai trò định hướng chính sách, đầu tư hạ tầng, hỗ trợ tín dụng xanh và bảo hiểm nông nghiệp. Doanh nghiệp cần đồng hành cùng nông dân qua bao tiêu sản phẩm, chuyển giao công nghệ, phát triển chuỗi giá trị. Người nông dân cũng cần thay đổi tập quán sản xuất, tham gia hợp tác xã để tăng sức cạnh tranh.
Biến đổi khí hậu đã biến những thách thức môi trường thành sức ép trực tiếp lên kinh tế và sinh kế ĐBSCL. Nhưng cũng từ sức ép ấy, cơ hội chuyển đổi bền vững đang mở ra. Một nền nông nghiệp xanh, hiện đại, giảm phát thải, gắn với chuỗi giá trị toàn cầu không còn là lựa chọn xa vời, mà là con đường duy nhất để vùng đất chín rồng vừa giữ được vai trò trụ cột an ninh lương thực quốc gia, vừa thích ứng với thời đại khí hậu bất định.