Nữ tiến sĩ ấp ủ đưa hormone nhân tạo điều trị vô sinh
PGS.TSKH Nguyễn Thị Mộng Điệp và cộng sự đã nghiên cứu thành công hormone eCG và hFSH tái tổ hợp hỗ trợ sinh sản, mang đến giải pháp điều trị vô sinh.
Giảm gánh nặng chi phí
PGS.TSKH Nguyễn Thị Mộng Điệp, Trưởng bộ môn Sinh học ứng dụng - Nông nghiệp, Khoa Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Quy Nhơn đã trở thành người Việt Nam duy nhất đạt tiêu chuẩn giáo sư tại Pháp năm 2024, đồng thời nằm top 3 ứng viên xuất sắc cho các vị trí chuyên ngành: Sinh lý học (Physiologie), Hóa sinh và sinh học phân tử (Biochimie et biologie moléculaire) và Sinh học cơ thể (Biologie des organismes).
“Khát khao lớn nhất của tôi lúc này là đưa hormone nhân tạo phục vụ điều trị vô sinh được sản xuất ngay tại Việt Nam. Từ dự án “Sản xuất các Gonadotropin chuỗi đơn để điều trị sinh sản” nhận tài trợ của Quỹ Đổi mới Sáng tạo Vingroup năm 2020, tôi đang quyết tâm hiện thực hóa giấc mơ giúp người bệnh giảm gánh nặng chi phí, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản”, TSKH Nguyễn Thị Mộng Điệp chia sẻ.
Bắt tay nghiên cứu, đến tháng 4/2024, nhóm tạo thành công cho ra đời hai loại hormone eCG và hFSH, được chứng minh có hiệu quả sinh học tương đương hormone tiêu chuẩn.
Hai loại hormone gonadotropin tái tổ hợp mới, hFSH (human Follicle Stimulating Hormone) và eCG (equine Chorionic Gonadotropin) do PGS.TSKH Nguyễn Thị Mộng Điệp và cộng sự nghiên cứu với mục tiêu hỗ trợ sinh sản cho người và động vật.
PGS Điệp cho biết, hormone gonadotropin tự nhiên đã được sử dụng một thời gian dài trong điều trị vô sinh ở người và động vật như hFSH, hLH, hCG, eCG (PMSG). Song, vì các vấn đề vệ sinh và đạo đức, việc sản xuất và cung cấp các hormone gonadotropin tự nhiên khó khăn hơn.
Nguồn cung cấp khan hiếm cùng với chi phí vận chuyển cao khiến giá thành của các hormone gonadotropin tự nhiên tăng, ảnh hưởng đến khả năng sử dụng chúng trong điều trị vô sinh ở người hoặc kiểm soát sinh sản ở động vật.
Hai loại hormone hFSH và eCG chuỗi đơn tái tổ hợp từ dự án của PGS Mộng Điệp và cộng sự cũng sử dụng một liều tiêm duy nhất cho cả quá trình hỗ trợ sinh sản.
Sản phẩm đã đánh dấu một bước tiến mới trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, mang đến giải pháp điều trị vô sinh hiệu quả, bền vững và dễ tiếp cận hơn so với các sản phẩm truyền thống, giảm gánh nặng thời gian, chi phí đi lại cho người bệnh.
Chờ được thử nghiệm trên người
PGS Mộng Điệp cho biết, dự án đã hoàn tất giai đoạn nghiên cứu in vitro (trong ống nghiệm) và thử nghiệm trên chuột Wistar nhập từ Đài Loan. Đơn vị nghiên cứu đã sẵn sàng chuyển giao công nghệ để đưa sản phẩm ra thị trường. Tuy nhiên, việc thử nghiệm lâm sàng trên người chưa được thực hiện do giới hạn trong phạm vi dự án hiện tại.
PGS.TSKH Mộng Điệp chia sẻ, dự án này đòi hỏi phải tích hợp nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như sinh học phân tử, hóa sinh, và kỹ thuật sinh học để có thể thực hiện quy trình sản xuất hormone.
Tính tiên phong của dự án không chỉ thể hiện ở mặt công nghệ mà còn ở mức độ ứng dụng trong thực tiễn y học, giúp giải quyết vấn đề sức khỏe cộng đồng. Dự án thành công sẽ mang lại cơ hội điều trị tốt hơn cho người bệnh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của ngành khoa học y sinh và công nghệ sinh học tại Việt Nam.
PGS.TSKH Mộng Điệp đam mê nghiên cứu khoa học không đơn thuần chỉ là nhiệm vụ công việc, mà còn bắt nguồn từ mong muốn cải thiện cuộc sống con người, đặc biệt là trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản.
Đó là động lực lớn nhất thôi thúc cô tìm ra giải pháp tiên tiến để điều trị vô sinh. Khát khao lớn nhất của cô lúc này là tiếp tục được nghiên cứu lâm sàng để có thể đưa hormone nhân tạo phục vụ điều trị vô sinh được sản xuất ngay tại Việt Nam.
Qua đó, giúp người bệnh giảm gánh nặng chi phí và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Đồng thời, cũng giúp Việt Nam tự chủ nguồn cung, giảm lệ thuộc nhập khẩu.
TS Huỳnh Gia Bảo, chuyên gia về kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm (IVF) tại Bệnh viện Mỹ Đức (TPHCM), hy vọng dự án nghiên cứu hormone tái tổ hợp hỗ trợ sinh sản của PGS.TSKH Mộng Điệp và cộng sự sẽ giúp nâng cao khả năng tiếp cận, giảm chi phí điều trị cho người bệnh Việt Nam, đặc biệt tại vùng xa xôi.
Với dự án tiềm năng và ứng dụng thực tế cao do người Việt thực hiện, ông tin tưởng sẽ nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước, mở rộng cơ hội sinh con cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn.