Ổn định quy mô dân số để phát triển đất nước

Trong thời gian qua, nước ta đã ban hành các chính sách dân số (DS) với hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện mục tiêu nhất quán là giảm mức sinh, giảm tỷ lệ gia tăng DS, giảm sức ép của DS đến quá trình phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Hiện, cả nước đang nỗ lực chuyển trọng tâm chính sách DS từ kế hoạch hóa gia đình sang thực hiện và đạt được các mục tiêu toàn diện cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng DS và được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.

Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 đặt mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân 2,1 con/phụ nữ). Ảnh: Bích Nguyên

Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 đặt mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân 2,1 con/phụ nữ). Ảnh: Bích Nguyên

Tận dụng tốt thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”

Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), số con trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ giảm nhanh, đạt mức sinh thay thế vào năm 2006, sớm hơn 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14-1-1993 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách DS-KHHGĐ và được duy trì trong hơn một thập kỷ qua. Năm 2007, nước ta đã bước vào thời kỳ cơ cấu DS vàng, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm tới gần 70% DS, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Thành công của công tác DS trong thời gian qua đã làm cho tỷ lệ “nhóm phụ thuộc từ 0-14 tuổi” giảm mạnh. Điều này dẫn tới tỷ lệ nhóm DS “trong độ tuổi lao động” tăng nhanh. Nếu năm 1979, nhóm này chỉ chiếm 53% tổng dân số, thì đến năm 2007 đã đạt 67,31% và năm 2017 là 68%. Đây là dư lợi lớn của “cơ hội DS vàng” cho tăng trưởng kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cần phải nhấn mạnh rằng, tỷ lệ DS từ 0-14 tuổi giảm mạnh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, là cơ hội để cải thiện sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, thanh niên, sử dụng nguồn lao động dồi dào cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu “DS vàng” tạo cơ hội cho tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục, việc làm trong tương lai.

Tuy nhiên, hiện nay, công tác DS vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như mức sinh có sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, chất lượng DS chưa cao. Để giải quyết vấn đề này, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25-10-2017 Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác DS trong tình hình mới, với trọng tâm là chuyển chính sách DS từ kế hoạch hóa gia đình sang DS và phát triển nhằm mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc.

Duy trì mức sinh thay thế

Mức sinh giữa các vùng có sự chênh lệch ngày càng lớn đã tác động bất lợi cho việc ổn định quy mô DS. Nhiều tỉnh có mức sinh tăng cao trở lại, trong khi đó lại có những tỉnh có mức sinh thấp, thậm chí một số tỉnh có mức sinh rất thấp. Bên cạnh đó, tỉ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng cao. Trong khi đó, chất lượng DS vẫn còn nhiều hạn chế. Những vấn đề này nếu không được giải quyết, về lâu dài sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.

Cán bộ y tế tỉnh Gia Lai hướng dẫn bà mẹ cách vệ sinh rốn cho trẻ sơ sinh. Ảnh: Thu Thủy

Cán bộ y tế tỉnh Gia Lai hướng dẫn bà mẹ cách vệ sinh rốn cho trẻ sơ sinh. Ảnh: Thu Thủy

Giải quyết tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng miền, trước hết, công tác truyền thông phải đi trước một bước theo hướng linh hoạt về nội dung và hình thức truyền thông phù hợp với đặc điểm từng vùng, miền. Với những tỉnh có mức sinh thấp, dưới 2,1 con/phụ nữ, cần có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phụ nữ sinh 2 con. Đối với địa phương có mức sinh cao, tiếp tục áp dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các cặp vợ chồng, gia đình, tập thể, cộng đồng không có người sinh con thứ ba trở lên; hỗ trợ người dân thực hiện dịch vụ KHHGĐ, bao gồm phương tiện tránh thai; bồi dưỡng, hỗ trợ người thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ, người vận động thực hiện KHHGĐ,... Mở rộng tiếp cận các dịch vụ sửc khỏe sinh sản, KHHGĐ và các dịch vụ có liên quan

Có một thực tế là tình trạng phụ nữ mang thai biết được giới tính thai nhi còn phổ biến. Tốc độ tăng nhanh tỷ số giới tính khi sinh chưa được khống chế do hiệu lực thi hành pháp luật thấp trong việc phát hiện hành vi và xử lý tình trạng chẩn đoán giới tính thai nhi. Trước hết, cần phải thay đổi nội dung, phương pháp tiếp cận truyền thông để tạo dư luận xã hội lên án các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi nhằm khuyến khích nhiều người tham gia giám sát, phát hiện các hành vi sai trái.

Về công tác nâng cao chất lượng DS, cần phải đẩy mạnh truyền thông thay đổi hành vi cho phụ nữ và gia đình trong việc tham gia và chấp nhận tự chi trả cho các dịch vụ sàng lọc trước sinh và sơ sinh. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng các dịch vụ về chăm sóc sức khỏe sinh sản, có các biện pháp tuyên truyền thay đổi nhận thức hành vi để tiến tới chấm dứt tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống. Do đó, công tác truyền thông phải chú trọng hơn nữa đến vùng dân tộc thiểu số, miền núi, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và có những hình thức, sản phẩm truyền thông phù hợp với từng nhóm DS cụ thể.

Thu Hằng

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/on-dinh-quy-mo-dan-so-de-phat-trien-dat-nuoc-post433659.html