Ông Điểu Nen, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đồng Nai: 'Kiên trì, đồng bộ để đẩy lùi tảo hôn và hôn nhân cận huyết'
Sau 10 năm triển khai Đề án 'Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số', Đồng Nai đã ghi nhận những chuyển biến rõ nét cả về nhận thức lẫn hành vi của cộng đồng. Với cách làm gần dân, linh hoạt và sự tham gia của đội ngũ già làng, người uy tín, các mô hình truyền thông – tư vấn pháp luật đã phát huy hiệu quả, giúp đẩy lùi tình trạng tảo hôn tại nhiều địa bàn. Trao đổi với Báo Pháp luật Việt Nam, ông Điểu Nen – Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đồng Nai, chia sẻ những kết quả nổi bật và định hướng trọng tâm giai đoạn 2025–2030 nhằm tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tảo hôn, hôn nhân cận huyết trên địa bàn.
PV:Thưa ông, sau 10 năm triển khai Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, Đồng Nai đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Ông có thể khái quát những dấu ấn nổi bật nhất, đặc biệt là sự chuyển biến trong nhận thức và hành vi của người dân vùng dân tộc thiểu số?
ÔngĐiểu Nen: Sau 10 năm triển khai thực hiện Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số” và lồng ghép Đề án trong quá trình thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Có thể nói, Đồng Nai đã đạt nhiều kết quả toàn diện, cả về tuyên truyền, giáo dục pháp luật lẫn thay đổi hành vi tuân thủ pháp luật của Nhân dân. Cụ thể: Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã giảm rõ rệt. Nếu như giai đoạn 2015 - 2020, một số địa bàn miền núi còn xảy ra các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, thì đến nay phần lớn đã được ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Sau 10 năm cùng các cấp, các ngành triển khai thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Đề án, điều đáng mừng là nhận thức, hành vi tuân thủ pháp luật của đồng bào đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều hộ gia đình, già làng, người có uy tín đã trở thành lực lượng tuyên truyền nòng cốt, tích cực vận động gia đình, đồng bào dân tộc thiểu số chấp hành tốt các quy định pháp luật về Hôn nhân gia đình, Bình đẳng giới nhằm xây dựng gia đình văn minh, hạnh phúc.

Ông Điểu Nen – Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đồng Nai
PV:Trong quá trình thực hiện, Sở Dân tộc và Tôn giáo đã phối hợp với các Sở, ban, ngành và đoàn thể triển khai, nhân rộng các mô hình tuyên truyền, tư vấn pháp luật và hỗ trợ cộng đồng. Ông đánh giá như thế nào về vai trò của các mô hình này trong việc thay đổi nhận thức và phòng ngừa tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống?
ÔngĐiểuNen:Đây là một trong những điểm nhấn quan trọng trong quá trình triển khai lồng ghép Đề án với các Chương trình, Đề án khác trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Việc thực hiện thí điểm các mô hình để đi đến nhân rộng các mô hình có cách làm hay hiệu quả cần có rất nhiều yếu tố như: Con người, kinh phí, cơ sở vật chất, điều kiện thực tiễn (như: phong tục, tập quán của từng dân tộc). Trong giai đoạn 2020 – 2025, việc thực hiện Đề án được triển khai lồng ghép vào các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia và các Đề án khác. Hiện nay, các mô hình như “Địa chỉ tin cậy – nhà tạm lánh”, “Ấp, khu phố an toàn cho phụ nữ và trẻ em”, hay “Câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình”, “Gia đình 5 không, 3 sạch” đã tạo ra môi trường sinh hoạt cộng đồng tích cực, gắn kết người dân và chính quyền trong việc góp phần giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.
Toàn tỉnh đã và đang duy trì 581 địa chỉ tin cậy tại cộng đồng, 86 tổ tư vấn pháp luật với hơn 1.700 thành viên, 122 câu lạc bộ phòng, chống bạo lực gia đình với 1.548 người tham gia, cùng hơn 2.000 tổ, câu lạc bộ phụ nữ hoạt động thường xuyên. Các mô hình, câu lạc bộ này đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện, can thiệp sớm, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cho người dân, giúp giảm thiểu các vụ việc tảo hôn, đồng thời củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số vào pháp luật và chính quyền địa phương.

Các hội thi tìm hiểu pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc luôn được quan tâm.
PV:Công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vốn gặp nhiều khó khăn do rào cản ngôn ngữ, phong tục, tập quán. Theo ông, đâu là yếu tố giúp công tác truyền thông pháp luật của Đồng Nai đạt hiệu quả, “chạm” được đến người dân và tạo chuyển biến thực chất?
ÔngĐiểu Nen: Yếu tố quyết định chính là cách làm gần dân, nói để dân hiểu, làm để dân tin. Chúng tôi chú trọng sử dụng chính người có uy tín, già làng, chức sắc tôn giáo, trưởng ấp làm tuyên truyền viên, bởi tiếng nói của họ có sức thuyết phục lớn trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, các hình thức truyền thông cũng được đổi mới, linh hoạt – từ hội nghị, phát thanh lưu động, đến sân khấu hóa, hội thi, mạng xã hội. Trong 10 năm, tỉnh đã phát hành hơn 171.000 tài liệu tuyên truyền, tổ chức 19.569 buổi phổ biến pháp luật với gần 1,9 triệu lượt người tham dự. Việc đưa nội dung tuyên truyền bằng ngôn ngữ, hình ảnh phù hợp với từng dân tộc giúp thông tin được tiếp nhận tự nhiên và hiệu quả. Nhờ đó, thông điệp “Không tảo hôn, không hôn nhân cận huyết thống” thực sự đi vào đời sống, trở thành nếp nghĩ và hành động của người dân.

Ông Điểu Nen – Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đồng Nai thăm, tặng quà cho các cơ sở tôn giáo.
PV:Thực tế cho thấy, việc ngăn chặn tảo hôn không chỉ liên quan đến pháp luật mà còn gắn với sinh kế, giáo dục và vai trò của phụ nữ. Ông có thể chia sẻ thêm về những giải pháp Đồng Nai đang triển khai để nâng cao vị thế phụ nữ và thanh niên vùng dân tộc thiểu số, từ đó ngăn ngừa tái diễn tình trạng tảo hôn?
ÔngĐiểu Nen: Chúng tôi xác định, muốn phòng ngừa tảo hôn bền vững phải nâng cao đời sống, mở rộng cơ hội học tập và việc làm cho phụ nữ, thanh niên dân tộc thiểu số. Vì vậy, Đề án được triển khai gắn liền với 3 Chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình mục tiếu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Sở Dân tộc và Tôn giáo với vai trò cơ quan Thường trực Chương trình mục tiếu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi sẽ phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ (cơ quan chủ trì dự án 8 –CTMTQG), hàng năm tổ chức đối thoại cho phụ nữ DTTS; phối hợp với các sở, ban, ngành tăng cường tuyên truyền kỹ năng sống, chăm sóc sức khỏe sinh sản, kiến thức về bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là phụ nữ và thanh niên. Bên cạnh đó, nhân rộng các mô hình thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ; phát triển và nhân rộng mô hình tiết kiệm và tín dụng tự quản để tặng cường tiếp cận tín dụng, cải thiện cơ hội sinh kế, tạo cơ hội tạo thu nhập và lồng ghép giới. Khi phụ nữ có kiến thức, có việc làm và vị thế trong gia đình, họ sẽ tự chủ hơn, từ đó hạn chế tảo hôn và hôn nhân cận huyết một cách tự nhiên, bền vững.
PV:Giai đoạn 2025 - 2030, Sở Dân tộc và Tôn giáo sẽ tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm nào để duy trì và nhân rộng kết quả của Đề án, góp phần xây dựng cộng đồng dân tộc thiểu số phát triển bền vững, bình đẳng và hạnh phúc?
ÔngĐiểu Nen:Giai đoạn tới, chúng tôi xác định ba hướng trọng tâm:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, bên cạnh việc việc triển khai thực hiện các chính sách dân tộc nhằm phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giảm nghèo bền vững, các cấp các ngành cần xem việc đẩy lùi tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết tại tỉnh là nhiệm vụ chính trị, phải có sự vào cuộc của các ngành, các cấp và toàn xã hội. Việc triển khai thực hiện phải có sự phân công phân cấp rõ ràng, rõ địa chỉ và có kết quả cụ thể để đánh giá hiệu quả thực hiện. Các cấp, các ngành tiếp tục duy trì và nhân rộng các mô hình hiệu quả, nhất là các mô hình can thiệp cộng đồng, tổ tư vấn pháp luật và câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình.
Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong truyền thông, tuyên truyền pháp luật nhằm giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; mở rộng mạng lưới tuyên truyền viên (đặc biệt ưu tiên sử dụng đội nhũ người có uy tín, cán bộ phụ nữ làm công tác dân tộc, tôn giáo và cán bộ đoàn thành niên là người dân tộc thiểu số), tích hợp nội dung tuyên truyền về hôn nhân, bình đẳng giới vào các nền tảng mạng xã hội, hệ thống giáo dục, và sinh hoạt tôn giáo. Đồng thời, nâng cao trình độ, chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ công tác dân tộc, bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là đội ngũ làm công tác dân tộc và tôn giáo cấp xã, thôn, ấp.
Mục tiêu đến năm 2030 là duy trì bền vững kết quả đạt được, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, góp phần xây dựng cộng đồng dân tộc thiểu số phát triển toàn diện, văn minh và hạnh phúc.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!












