Ông Nguyễn Thiện Nhân: Thế hệ trẻ Việt Nam-Trung Quốc hãy trân trọng tài sản vô giá 100 năm
Tình hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc đã có từ rất lâu, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mỗi nước, gắn với Chủ tịch Hồ Chí Minh và khởi đầu cách đây 100 năm.

Ông Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ tại Chương trình Gặp gỡ lưu học sinh, sinh viên Việt Nam-Trung Quốc các thời kỳ, ngày 20/3. (Ảnh: Thành Long)
Nhân dịp tham dự Chương trình Gặp gỡ lưu học sinh, sinh viên Việt Nam-Trung Quốc các thời kỳ tại Cung Hữu nghị Việt-Trung (Hà Nội) ngày 20/3, ông Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, cựu học sinh trường Dục Tài Quế Lâm, Quảng Tây (Trung Quốc) đã chia sẻ với báo chí về tình hữu nghị Việt-Trung và kỷ niệm cá nhân với đất nước và con người Trung Hoa.
Là cựu học sinh của Việt Nam tại Trung Quốc, ông cảm nhận như thế nào về ý nghĩa của tình hữu nghị Việt Trung trong mạch truyền thống 75 năm quan hệ hai nước?
Tình hữu nghị Việt-Trung đã có từ rất lâu, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mỗi nước, gắn với Chủ tịch Hồ Chí Minh, khởi đầu cách đây 100 năm. Năm 1924, Bác Hồ sang Trung Quốc đào tạo lớp trẻ Việt Nam để hoạt động cách mạng và sau đó gửi tiếp lớp trẻ Việt Nam tới Trường Quân sự Hoàng Phố và các trường khác.

Ông Nguyễn Thiện Nhân trả lời phỏng vấn báo chí bên lề Chương trình Gặp gỡ lưu học sinh, sinh viên Việt Nam-Trung Quốc các thời kỳ. (Ảnh: Đức Anh)
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Trung Quốc là hậu phương của cách mạng Việt Nam. Một số thương binh nặng của Việt Nam được đưa sang Trung Quốc điều trị và phía bạn đã cung cấp cho chúng ta vũ khí. Trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng có pháo binh của Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc cũng là hậu phương của cách mạng Việt Nam. Việc các thế hệ chúng tôi có điều kiện sang Trung Quốc học tập đã phản ánh điều đó, đồng thời góp phần đào tạo nhân lực cho tương lai hai nước.
Hôm nay có dịp nhớ lại thời kỳ ở Trung Quốc cách đây gần 60 năm, tôi rất vui mừng, xúc động. Từ đó đến nay, có rất nhiều thế hệ Việt Nam tiếp tục sang Trung Quốc học tập và góp phần thúc đẩy hợp tác giữa hai nước.
Không chỉ là láng giềng, hậu phương cách mạng, Trung Quốc còn là Đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Tôi cho rằng những yếu tố tiền đề này sẽ không thay đổi trong tương lai. Nhìn vào quá khứ, hiện tại để tin tưởng rằng nếu phát huy tốt tất cả các yếu tố này chúng ta sẽ cùng phát triển.
Tôi muốn nhắn gửi thông điệp rằng các thế hệ trẻ hãy trân trọng tài sản vô giá 100 năm mà các thế hệ hai bên đã vun đắp, xây dựng. Những cuộc gặp gỡ với thế hệ học sinh, sinh viên Việt Nam-Trung Quốc các thời kỳ là sự kiện ý nghĩa, giúp nhắc nhở rằng tương lai hai nước sẽ ngày càng tốt đẹp hơn bởi nỗ lực của mỗi quốc gia cũng như sự hợp tác toàn diện giữa hai dân tốc, là cơ hội để giới trẻ hai nước cùng giao lưu, chia sẻ cuộc sống, tương lai.
Nhớ lại những năm tháng học tập tại Trung Quốc, những kỷ niệm nào khiến ông trân quý nhất?
Điều tôi ấn tượng nhất là việc Trung Quốc đã giúp Việt Nam khi nước bạn còn rất khó khăn. Khi học ở Quế Lâm, đi trên những cánh đồng ngô, dưa, chúng tôi luôn có cảm giác thân thuộc với những nét tương đồng ở thôn quê Việt Nam. Hóa ra, bạn cũng giống như mình, nhưng nhân dân Trung Quốc vẫn chia sẻ với Việt Nam.
Tôi cho rằng, trong cuộc đời mỗi con người nên có một lần đi ra nước ngoài và nhất là đến các nước láng giềng để thấy nhau, hiểu nhau rõ hơn, từ đó tìm được sự tương đồng.
Cá nhân tôi có nhiều rất kỷ niệm với Quế Lâm. Những con sông ở Quế Lâm rất đẹp, du học sinh Việt Nam thường rủ nhau bơi qua sông dù không được phép, nhiều phen cũng "hú vía". Những lần bơi qua sông cũng là kỷ niệm đáng nhớ mà tôi không bao giờ quên.
Theo ông, làm thế nào để lan tỏa, truyền cảm hứng về tình hữu nghị Việt-Trung trong giới trẻ?
Khi là Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi đã nghĩ ngoại ngữ là cây cầu rất quan trọng để các nước hiểu nhau, trong bối cảnh giao lưu chung, các nước hầu như chọn tiếng Anh là ngôn ngữ đầu tiên để học thêm trong nhà trường.
Từ cách đây 18 năm, tôi đã trao đổi trong Bộ là cần phải chuẩn bị một chiến dịch thứ hai, đó là đưa tiếng Trung trở thành ngoại ngữ phổ cập ở Việt Nam, sau tiếng Anh. Bây giờ, tôi rất mong muốn các nhà trường, thanh niên tận dụng cơ hội học tiếng Trung trên mạng để chúng ta tự bồi dưỡng năng lực cho mình, cũng như có điều kiện sang Trung Quốc học hoặc làm việc.
Mỗi ngoại ngữ là một hệ tọa độ trong không gian nhiều chiều để chúng ta sống, học tập và trưởng thành. Chúng tôi rất mong ngành giáo dục Việt Nam sẽ phối hợp với ngành giáo dục Trung Quốc đẩy mạnh việc học và dạy tiếng Trung tại Việt Nam; đẩy mạnh việc giao lưu giữa hai bên vì đó là con đường phát triển ngắn nhất quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước.
Quan hệ hữu nghị Việt-Trung hiện nay đang phát triển rất tốt đẹp. Theo ông, tình hữu nghị ấy đã và sẽ đóng góp như thế nào vào sự phát triển của hai nước?
Lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc đã tổng kết: Càng hợp tác thì càng hiểu nhau hơn và sự hiểu nhau hơn đó nằm trong hiểu biết của nhân dân mỗi nước. Đây cũng là nguồn gốc của hợp tác phát triển.
Hiện nay, giao lưu thương mại hai nước rất lớn. Trung Quốc hiện đang là đối tác xuất - nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam và đầu tư cũng đang ngày càng được tăng cường.
Việt Nam phát triển cũng góp phần làm cho Đông Nam Á ổn định, phát triển. Việt Nam hợp tác tốt với Trung Quốc sẽ đưa khu vực châu Á và thế giới ổn định phát triển. Vì vậy, hợp tác cùng phát triển sẽ luôn là phương châm rất quan trọng đối với Việt Nam và các nước trên thế giới.