'Ông trùm' bến Thượng Hải: 'Đế quốc' nha phiến
Những năm đầu thế kỷ XX, ngành kinh doanh, nguồn lợi tài chính mà giang hồ Thượng Hải thâu tóm được để nuôi sống chính đội ngũ này chủ yếu là từ hai nguồn: thuốc phiện và gái.
Trong các tô giới Anh, Pháp, khai thác nguồn lợi thuốc phiện thuộc độc quyền của chính quyền. Cũng như ở Đông Dương cùng thời điểm, tất cả các tiệm hút thuốc phiện công khai, gọi là đại lý thuốc phiện (P.O) đều đặt dưới sự quản lý của Công quản thuốc phiện nhà nước. Giới giang hồ chỉ hớt váng bằng nguồn thuốc phiện buôn lậu nên lượng tiền thu được không cao.
Chỉ từ 1914, sau khi chiến tranh thế giới I bùng nổ, vì bận bịu giải quyết nhiều vấn đề thời chiến khác cùng chính phủ ở chính quốc, chính quyền các khu tô giới buộc phải bắt tay với các băng đảng xã hội đen, giao hẳn quyền khai thác thuốc phiện cho cả cảnh sát lẫn giang hồ bản xứ, nguồn lợi này mới chảy vào túi băng đảng dồi dào hơn, ngày càng trở nên quan trọng.
Trước giai đoạn đó, kinh doanh, bảo kê ngành công nghiệp không khói trên thân xác phụ nữ mới là nguồn thu nhập chính của các băng đảng giang hồ. Chiến tranh băng đảng cũng bắt đầu từ đó mà ra.
Thượng Hải là vùng đất mới khai phá, dân tứ chiếng đổ về nhiều, tăng dân cơ học nhanh chóng mặt nên ngành mại dâm phát triển cực thịnh. Vào thời đó, mặt tiền đường phố những khu sầm uất nhất Thượng Hải, cứ trung bình 12 căn nhà thì có một căn công khai treo biển thanh lâu, kỹ viện, chưa kể những khu nhà thổ bình dân nhếch nhác lùi sâu ẩn mình trong các con hẻm.
Theo thống kê, riêng tại hai khu tô giới Anh và Pháp đã có tới 668 nhà thổ các loại, từ hèn đến sang. Số lượng ca kỹ, gái thanh lâu chiếm tới 1/130 tổng số cư dân Tô giới Thượng Hải, tất tật do các băng đảng giang hồ bảo kê. Thanh Bang của Hoàng Kim Vinh, Trương Tiêu Lâm quản lý và khai thác khoảng 60% số gái nhà chứa này.
Nhà nghỉ Thiên Thống, nơi Đỗ Nguyệt Sênh bảo kê và ưa bố trí đón tiếp Tưởng Giới Thạch, Đới Lạp đến ăn chơi giải trí thường xuyên có khoảng 120 kỹ nữ. Gái điếm vừa là nguồn tiền, vừa là đám con nợ kinh niên để Thanh Bang và các băng giang hồ khác tha hồ bóp nặn.
Dĩ nhiên, để tồn tại, giữa giới ca kỹ, gái điếm với nhau cũng luôn xảy ra cạnh tranh và đụng độ khốc liệt, nhiều khi cuốn luôn cả đám bảo kê băng đảng của họ vào những cuộc chiến tranh hương phấn.
Một số rất ít trong số họ, ngoài nhan sắc còn được trời phú cho ít tài năng cầm, kỳ, thi, họa, may ra mới có cơ hội ngoi lên. Lọt vào cặp mắt ưu ái của một Hắc, Bạch tiên sinh quyền uy, hoặc một Tài, Xỉu thiếu gia phong lưu nào đó, họ mới có cơ hội thay đổi phần kiếp.
Chấp nhận làm thê thiếp, hoặc thành "thanh mai tri kỷ" tiêu sầu cho các đại gia, thiếu gia, một số gái thanh lâu đã đổi lốt, một bước lên bà. Hoàng Kim Vinh, Tưởng Giới Thạch, Trương Tiêu Lâm, Đỗ Nguyệt Sênh, rồi cả Đới Lạp, Vương Á Tiều… sau này đều có những mỹ nhân sủng ái xuất thân từ nhà thổ. Năm thê bảy thiếp, với đàn ông phong lưu giai đoạn đó không hề là chuyện lạ.
Khi heroin, loại thuốc dùng "trị ho" hoặc "thần dược cai nghiện thuốc phiện" trở nên thông dụng, cơ cấu ngành nghề lẫn nguồn thu ưu tiên của xã hội đen cũng thay đổi hẳn. Buôn lậu heroin trở thành nguồn cung tài chính lớn nhất, nếu không nói là chủ yếu của các băng đảng giang hồ.
Thâu tóm được quyền lực Thanh Bang trong tay, Đỗ Nguyệt Sênh tức khắc xua quân từ Tô giới Pháp sang tô giới Anh đánh bạt tập đoàn Triều Châu đang thất thế, độc quyền khai thác ngành buôn bán ma túy.
Đúng thời điểm đó, chính quyền thực dân Anh, Pháp cũng giở chiêu bài mị dân, phát động phong trào "tân sinh hoạt", kêu gọi dân chúng bãi bỏ uống rượu và hút thuốc phiện.
Cảnh sát Thượng Hải dưới quyền điều khiển của Hoàng Kim Vinh, Trương Tiêu Lâm cũng bắt, phạt rất nặng bất kỳ ai buôn bán hay sử dụng thuốc phiện. Thị trường cho xã hội đen thao túng đã được chính quyền dọn dẹp và bày sẵn. "Hưởng ứng" phong trào bỏ thuốc phiện, Đỗ đã cho nhập heroin từ Marseille, Pháp về Thượng Hải.
Ban đầu, heroin được nhập về dưới dạng "hồng phiến". Thật ra, nếu đúng thì phải gọi nó trong tên chung chỉ mọi loại heroin là bạch phiến.
Đừng vì cách gọi xưa cũ cách đây một thế kỷ mà nhầm lẫn "hồng phiến" của Đỗ với Methamphetamin, một loại ma túy tổng hợp dạng viên, màu hồng (cũng có khi xanh, đỏ, hình quả tim hoặc hình bình hành) khá thông dụng. Loại Methamphetamin này, ngày nay phổ biến với dân chơi trong tên gọi Speed (tốc độ) vì tác dụng cực nhanh và cực mạnh của nó.
"Hồng phiến" ngày xưa thật ra là loại heroin số 3 được sản xuất nhiều tại khu vực TP cảng Marseille của Pháp. Nguyên liệu điều chế là thuốc phiện do công ty Đông Ấn mang về chủ yếu từ vùng Lưỡi Liềm Vàng (Golden Crescent) - tức khu vực giao giữa Trung Á, Nam Á và Tây Á, vùng núi non tạo thành hình trăng non (lưỡi liềm) bao trùm lên ba nước Iran - Afghanistan - Pakistan.
Heroin số 3 có độ tinh khiết không cao, chỉ khoảng 70%, lẫn một số tạp chất, không mịn và có màu nâu hồng. Nó chỉ dùng để hút và hít. Nếu hòa nước cất chích thẳng vào mạch máu sẽ rất nguy hiểm. Tạp chất lẫn trong heroin dễ gây shock thuốc hoặc tắc nghẽn mạch.
Tuy nhiên, cho đến nay, sau chẵn trăm năm, nó vẫn chính là loại heroin phổ biến nhất trên thị trường.
Cách dùng thì không chỉ hút và hít mà là bất cứ kiểu gì bọn nghiện nghĩ ra và có thể thực hiện. Tồn tại và phổ biến lâu ngang với nó chỉ có thể là sự liều lĩnh và ngu xuẩn của các con nghiện.
Heroin được Đỗ quảng cáo rầm rộ như "loại thuốc cai nghiện thuốc phiện tốt nhất thế giới". Liều dùng heroin số 3 rẻ hơn nhiều so với dùng thuốc phiện (chỉ bằng 40%), lại nhanh chóng, sạch sẽ, tác dụng phê đến nhanh, cho nên 70% con nghiện đã quay lưng với thuốc phiện để vồ vập với heroin của Đỗ mang về.
Lợi nhuận khổng lồ đã khiến Đỗ nhập heroin về ồ ạt. Không chỉ cung cấp cho thị trường Thượng Hải, nó còn được xuất đi Hong Kong, đi Nhật và sang phục vụ cả đội quân nghiện ngập đông đảo của nước Mỹ bờ bên kia Đại Dương. Riêng năm 1923, Đỗ đã cho nhập và bán đi 10,25 tấn loại "hồng phiến" này.
Năm 1925, công ước Geneve đã loại bỏ thế hợp pháp của heroin trên toàn thế giới. Việc nhập heroin từ châu Âu trở nên khó khăn hơn, Đỗ Nguyệt Sênh đã tổ chức điều chế nó tại chỗ. Các tỉnh Vân Nam, Quý Châu và nhất là Tứ Xuyên, Tây Nam Trung Quốc, phía đầu nguồn sông Dương Tử, nơi xuất xứ của Thanh Bang hội Thượng Hải trở thành "nguồn cung cấp nguyên liệu bào chế" heroin cho Đỗ tại Thượng Hải.
Việc bào chế, Đỗ giao cho 7 nhà hóa học của băng Triều Châu thực hiện. Và sau này, cho đến tận bây giờ, tất cả các hóa công điều chế heroin lành nghề của các băng đảng ở châu Á hầu như đều là người Triều Châu và chỉ có Triều Châu mà thôi.
Lý do là công thức điều chế thì không khó nhưng kỹ thuật điều chế heroin lại rất phức tạp. Cứ 10 kg nhựa thuốc phiện sống, sau khi chưng cất sẽ thu được 1kg morphin tinh chất.
Quá trình hóa hợp morphin với anhydric sẽ làm tăng tác dụng (kích thích, độ phê) của morphin lên 10 lần, cho ra heroin, tỷ lệ 1:1. Do tác dụng của anhydric, các lò phản ứng morphin rất dễ gây cháy nổ nên không thể điều chế nó trong điều kiện thô sơ như điều chế morphin được.
Mặt khác, sau đó khá lâu, chỉ có những nhà hóa học trình độ cao với phương tiện tiên tiến mới có thể điều chế được heroin tinh khiết (99,99%), trắng hồng, xốp, nhẹ, gọi là heroin số 4 (tức 4/4 tinh chất hay 4 số 9), có thể tiêm thẳng vào tĩnh mạch. Non tay hơn, heroin sẽ vẫn có màu nâu hồng, chỉ đạt mức số 3.
Trong quá trình điều chế heroin, người ta cần đến một chất hóa học là strychnine làm phụ gia. Kết hợp với ete sản sinh ra trong quá trình hóa hợp anhydric và morphine; strychnine bị ete hóa sẽ biến thành nguyên liệu nổ, biến cả lò chưng cất thành một quả bom.
Thị trấn Sán Đầu (Swantow), châu Triều Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Đông) là thủ phủ công nghệ thuộc da của Trung Quốc. Strychnine là chất để tẩy lông làm trắng da nên các nhà hóa học Sán Đầu giữ kỹ thuật rất thành thạo.
Cho đến nay, tất cả các nhà hóa học điều chế, chưng cất heroin giỏi nhất ở Tam Giác Vàng (khu vực miền Nam Myanmar - Bắc Thái Lan kéo dài đến một phần Tây Bắc Lào thuộc tỉnh Bo Keo) hầu như đều là người Sán Đầu, cha truyền con nối.
Theo nghiên cứu của Alfred W. McCoy trong cuốn "Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á" (NXB Công an Nhân dân, TP Hồ Chí Minh - 2002, Phạm Viêm Phương dịch từ cuốn sách cũng là Luận án tiến sĩ chính trị học tên gốc tiếng Anh "Politics of Heroin in Southeast Asia", xuất bản bởi Harper and Row, New York, 1972.
Một bản gốc đánh máy của Luận án này hiện đang được lưu trữ tại Thư viện KHXH TP Hồ Chí Minh), công thức để bào chế được 10.000 liều "thuốc cai nghiện" của Đỗ Nguyệt Sênh là 5 ounce heroin, 5 ounce cafein, 1 ounce quinin (thuốc trị sốt rét), 1 ounce đường kết tinh, 48 ounce đường trích ly từ sữa và 0,5 ounce strychnine (hóa chất dùng cho công nghệ thuộc da).
Thử hình dung: 1 ounce = 28,35gr, trong khi từ 1925 đến 1929, Đỗ đã cho nhập từ châu Âu về Thượng Hải tới 1,3 tấn strychnine, 24 tấn cafein và gần 1,5 tấn heroin, tất cả đều được dùng để bào chế "thuốc cai nghiện"! Hậu quả là 100.000 người trong số 3,5 triệu dân Thượng Hải lọt thỏm trong vũng bùn nghiện ngập từ thuốc của Đỗ.
Số còn lại, Đỗ bán vào nội địa và xuất khẩu sang Mỹ, cung cấp cho 200.000 con nghiện ở lục địa xa xôi này. Từ năm 1928 - 1933, dưới sự điều khiển của Đỗ, Thanh Bang hội đã chưng cất được 10,6 tấn heroin số 3.
Khi "thuốc cai nghiện" cũng bị cấm, Đỗ Nguyệt Sênh chuyển hẳn sang nghiên cứu điều chế và cung cấp heroin tinh chất (heroin số 4). Nguồn nguyên liệu vô biên là thuốc phiện sống được đám tay chân Thanh Bang hội trở về Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên mua, đóng gói xuôi sông Dương Tử đưa về các lò điều chế của Đỗ ở Thượng Hải.
Tỉnh Tứ Xuyên nằm ở Tây Nam Trung Quốc, diện tích 720.000 km² (rộng gấp đôi diện tích nước Việt Nam). Đa số diện tích tỉnh này là núi non hiểm trở, đất canh tác rất ít. Nhưng 1/3 diện tích đất đai có thể canh tác của Tứ Xuyên lại nằm ở cao độ 1500-1700m so với mực mước biển, đa phần là núi đá vôi, có độ chua phù hợp, đã được dành cho việc trồng thuốc phiện, được Đỗ Nguyệt Sênh và Thanh Bang hội thu mua, tất nhiên chỉ nhằm để điều chế heroin.
Đến cuối thập niên 1920, Đỗ Nguyệt Sênh đã trở thành nhà cung cấp heroin chính cho nước Mỹ. Năm 1930, một lô hàng heroin của Đỗ xuất sang Mỹ đã bị chính quyền Thượng Hải vây ráp và tịch thu. Tôn Khoa, người đứng đầu trong tứ đại quốc dân công tử, con trai trưởng của Tôn Trung Sơn (đã mất từ 1925), lúc này là Viện trưởng Viện Lập pháp là người chủ trương và chỉ đạo cuộc vây ráp này.
Cầm đầu vụ buôn lậu, đồng thời là chủ hàng, thật không may, lại chính là con trai lớn của Đỗ Nguyệt Sênh. Lúc này Đỗ Nguyệt Sênh đã trở thành Thiếu tướng, đồng thời là một kẻ rất có vị thế trong chính phủ của Quốc dân đảng. Chỉ một lô hàng này thôi cũng đã là một lượng heroin khổng lồ: 1245 bánh, tức khoảng 415kg!
(Còn tiếp)
Mỗi bánh heroin chuẩn nặng 0.333...kg. Nó được chia thành 10 lượng (đồng cân). 1 lượng 10 chỉ. 1 chỉ 10 phân. 1 phân 10 tép. Tép heroin bán lẻ thường được "đóng gói" trong một đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín 2 đầu.
Mỗi ngày, một "cao thủ" có thể dùng 10, thậm chí 15 cữ. Cách dùng phổ biến: hút, hít, hòa nước cất chích. Với đám thượng thừa cao thủ, nôm na là nghiện oặt xà lai và có tiền, để tăng độ phê, họ còn nghĩ ra đủ trò "chế biến", trộn thêm một số tân dược vào heroin trước khi sử dụng, gọi là "cán thuốc". Ở các bãi vàng, họ gọi là "đánh hóa".
Thợ cán lành nghề gọi là "lái xe", trình độ tay nghề được đánh giá theo các cấp độ từ B1 đến F... Mỗi loại tân dược phụ gia sẽ giúp tăng một loại ảo giác, cảm xúc khác nhau cho cơn phê: khóc, cười, vui, buồn, hung bạo... Tuy nhiên, nó cũng là tạp chất, nhanh làm con nghiện chai ven, vỡ tĩnh mạch, đồng thời gây tê liệt, hủy hoại thần kinh, hệ miễn dịch nhanh hơn. Hậu quả là đô, liều dùng của con nghiện sẽ tăng nhanh, cao hơn. Cơ hội cai nghiện và quay trở lại coi như không còn.