Ông Trump tìm ra lý do mới để loại bỏ các quan chức Fed, nền kinh tế Mỹ gặp thêm vật cản
Lý do mới của ông Trump có thể làm lung lay tính độc lập của Fed và gây ra những hệ lụy tiềm tàng đến nền kinh tế Mỹ.

Thị trường tài chính có thể gặp rắc rối lớn nếu tính độc lập của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) lâm nguy dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump. (Ảnh minh họa: Reason).
Lời đe dọa ngầm
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết ông “nghe nói” 4 quan chức do người tiền nhiệm Joe Biden bổ nhiệm vào Fed đều được phê duyệt bằng “bút ký tự động”. Ông ám chỉ quy trình này có thể không hợp lệ và yêu cầu cấp dưới điều tra.
Trong giai đoạn cầm quyền, ông Biden đã bổ nhiệm 4 thành viên vào Hội đồng Thống đốc Fed, bao gồm ông Philip Jefferson, ông Michael Barr, bà Lisa Cook và bà Adriana Kugler, đồng thời tái bổ nhiệm ông Jerome Powell vào vị trí Chủ tịch Fed.
Bà Kugler đã từ chức vào tháng 8/2025. Cố vấn kinh tế Nhà Trắng Stephen Miran đang tạm thời đảm nhận vị trí bỏ trống mà bà Kugler để lại.
Ông Trump gợi ý danh sách những người được bổ nhiệm bằng bút ký tự động có thể bao gồm ông Powell. Nhiệm kỳ Chủ tịch Fed của ông Powell sẽ kết thúc vào giữa năm 2026, nhưng ông Powell có lựa chọn tiếp tục phục vụ trong Hội đồng Thống đốc đến năm 2028.
Dù không đưa ra bằng chứng cho tuyên bố mới, lời đe dọa ngầm của ông Trump vẫn khiến dư luận lo ngại Nhà Trắng có thể dùng lý do đó để sa thải các thống đốc Fed - điều chưa từng có trong lịch sử.
Thông thường, các quan chức Fed được bảo vệ khỏi nguy cơ bị tổng thống sa thải chức nhằm tránh việc chính sách tiền tệ bị chi phối bởi yếu tố chính trị.
Nếu ông Trump sử dụng tin đồn về “bút ký tự động” làm lý do để cách chức các thống đốc, gần như chắc chắn họ sẽ khởi kiện quyết định này.
Tuy nhiên, nếu vượt qua được rào cản pháp lý, ông Trump sẽ có cơ hội đưa các đồng minh vào Fed - qua đó gia tăng đáng kể ảnh hưởng lên các quyết định lãi suất của ngân hàng trung ương (NHTW) Mỹ.
Cơ cấu của FOMC và chiến lược của ông Trump
Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) - cơ quan hoạch định chính sách của Fed - có 12 thành viên, trong đó bao gồm 7 thống đốc, Chủ tịch Fed chi nhánh New York và 4 trong 11 chủ tịch chi nhánh còn lại. Ông Powell cũng đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Thống đốc.
4 thành viên sau cùng sẽ phục vụ nhiệm kỳ một năm trên cơ sở luân phiên. Các ghế luân phiên được chọn từ 4 nhóm ngân hàng khu vực, mỗi nhóm chọn một người: Boston, Philadelphia và Richmond; Cleveland và Chicago; Atlanta, St. Louis và Dallas; và Minneapolis, Kansas City và San Francisco.

Các thống đốc do tổng thống đề cử và Thượng viện phê chuẩn. Chủ tịch các chi nhánh được hội đồng quản trị của từng ngân hàng lựa chọn nhưng phải được Hội đồng Thống đốc thông qua. Cơ chế trên khiến các thống đốc có vai trò vượt trội - cả về quyết định lãi suất lẫn nhân sự tại các chi nhánh.
Đáng chú ý, nhiệm kỳ 5 năm của tất cả 12 chủ tịch chi nhánh đều diễn ra đồng thời, kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng Hai các năm có số cuối là 1 hoặc 6 (ví dụ năm 2021 và 2026). Thông thường, họ có thể được tái bổ nhiệm liên tục chừng nào chưa đến ngưỡng giới hạn tuổi nghỉ hưu là 65.
Nếu năm tới Tổng thống Trump có thể đưa các đồng minh vào chiếm thế đa số trong Hội đồng Thống đốc, ông sẽ có thể tác động đến các chủ tịch chi nhánh - và qua đó là cả FOMC.
Ông Jaret Seiberg, nhà phân tích của ngân hàng đầu tư TD Cowen, lưu ý: “Tổng thống Trump có thể hối thúc các thống đốc Fed do ông bổ nhiệm bác bỏ các chủ tịch chi nhánh cho đến khi họ đồng ý ủng hộ giảm lãi suất và chấp nhận để Nhà Trắng gia tăng ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ. Khi đó, ông Trump sẽ có một FOMC hợp tác hơn”.
Ông Seiberg không phải người duy nhất có suy nghĩ này. Bà Lael Brainard, cựu Phó Chủ tịch Fed, cảnh báo trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg TV rằng có nguy cơ nhiều chủ tịch chi nhánh Fed sẽ bị thay thế vào năm tới.
Ông Scott Alvarez, cựu cố vấn pháp lý của Fed, đánh giá mục tiêu cuối cùng của chính quyền ông Trump là thuyết phục đa số thành viên FOMC ủng hộ giảm lãi suất - giống như những gì chủ nhân Nhà Trắng muốn.
Vị chuyên gia cảnh báo: “Điều đó sẽ phá hủy tính độc lập của Fed - khi đó rõ ràng mọi quyết định về lãi suất chỉ xoay quanh yếu tố chính trị, không dựa trên dữ liệu và không phải là điều tốt nhất cho nền kinh tế”.
Mối nguy nếu ông Trump sa thải một loạt thống đốc Fed
Tổng thống Mỹ tin nếu ông kiểm soát được Fed và thúc đẩy NHTW giảm mạnh lãi suất, điều này sẽ mang lại nhiều lợi ích: Lãi suất vay thế chấp mua nhà sẽ giảm, giúp người dân dễ sở hữu nhà hơn; lợi suất trái phiếu kho bạc cũng sẽ đi xuống, giúp chính phủ tiết kiệm hàng trăm tỷ USD lãi vay mỗi năm. Quan trọng không kém, ông cho rằng lãi suất giảm sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế mà không gây áp lực lạm phát.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế cảnh báo nếu Fed mất đi tính độc lập, nền kinh tế sẽ đối mặt với hậu quả nghiêm trọng. Nếu NHTW Mỹ giảm mạnh lãi suất, người dân có thể tận dụng chi phí vay rẻ để tăng vay nợ và chi tiêu - khiến nhu cầu vượt quá năng lực sản xuất của nền kinh tế, kéo lạm phát tăng vọt. Đây chính là những gì xảy ra trong đại dịch COVID-19.
Ông Douglas Elmendorf, nhà kinh tế thuộc Đại học Harvard, cảnh báo: “Nếu Fed rơi vào sự kiểm soát của tổng thống Mỹ, rất có thể chúng ta sẽ đối mặt với lạm phát cao trong nhiều năm”.
Và khi nhà đầu tư lo ngại lạm phát sẽ duy trì ở mức cao, họ sẽ yêu cầu lợi suất cao hơn đối với trái phiếu chính phủ Mỹ và các chứng khoán nợ khác, kéo lãi suất trên khắp nền kinh tế đi lên.
Như vậy, bất kỳ tác động tích cực nào đến tăng trưởng kinh tế của các đợt cắt giảm lãi suất cũng có thể bị dập tắt nhanh chóng.

Một hậu quả khác là nhà đầu tư quốc tế có thể sẽ mất niềm tin vào mức độ an toàn của tài sản tài chính Mỹ. Khi đó, dòng vốn có tháo chạy sang những nơi khác.
Dễ thấy nhất, điều này có thể xảy ra ở thị trường trái phiếu kho bạc - và thậm chí cả đối với đồng USD. Ông Francesco Pesole, chuyên gia ngoại hối tại ING, nhấn mạnh sức mạnh và vị thế của đồng bạc xanh có thể bị đe dọa nếu thị trường nhận định Fed không còn độc lập.
Ông giải thích: “Tính độc lập của Fed là nền tảng để mọi người xem USD là đồng tiền dự trữ. Thị trường chỉ nắm giữ một đồng tiền như tài sản dự trữ khi họ tin tưởng lạm phát được kiểm soát và thị trường trái phiếu vận hành ổn định. Trong trường hợp của USD, niềm tin đó được đảm bảo nhờ Fed độc lập khỏi chính trị.”
Do vậy, nếu lòng tin suy yếu, động lực nắm giữ USD cũng giảm theo.
Tấm gương từ Thổ Nhĩ Kỳ
Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ điển hình về hậu quả khi tổng thống can thiệp sâu vào chính sách tiền tệ.
Tổng thống Recep Tayyip Erdogan tin rằng lãi suất cao gây ra lạm phát - trái ngược hoàn toàn với lý thuyết kinh tế thông thường. Dựa trên niềm tin này, ông đã hành động quyết liệt để thúc đẩy các đợt hạ lãi suất.
Từ tháng 7/2019 đến tháng 3/2021, ông Edorgan đã sa thải ba thống đốc NHTW - gồm các ông Murat Cetinkaya, Murat Uysal và Naci Agbal. Nguyên nhân là họ duy trì hoặc hoặc tăng lãi suất để khống chế lạm phát.
Vào thời điểm ông Agbal bị cách chức vào tháng 3/2021, lạm phát của Thổ Nhĩ Kỳ là 16,7%. Đến tháng 10/2022, lạm phát leo lên mức cao nhất mọi thời đại là 85,5%. Đà tăng chóng mặt của áp lực giá diễn ra trong bối cảnh lãi suất chính sách liên tục bị cắt giảm, có lúc giảm xuống còn 8,5% vào tháng 2/2023.
Trong phần lớn giai đoạn đó, ước tính chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ phải chi gần 60 tỷ USD để hỗ trợ đồng lira, đẩy đất nước đến bờ vực khủng hoảng nợ.
Trước sự bất bình của công chúng, ông Edorgan buộc phải chuyển sang chính sách tiền tệ truyền thống hơn. Thổ Nhĩ Kỳ nâng lãi suất lên mức kỷ lục 50% vào tháng 3/2024, nhờ đó áp lực giá đã thuyên giảm. Lạm phát và lãi suất lần lượt hạ xuống 32,9% và 40%. Tuy nhiên, giá lira đã lao dốc khi không còn sự hỗ trợ của chính phủ.
Kinh nghiệm của Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy khi tính độc lập của NHTW bị xói mòn, nền kinh tế sẽ chịu thiệt hại khó lường.














