PGS.TS Nguyễn Chu Hồi: Gỡ 'thẻ vàng', áp dụng đồng bộ các giải pháp để có một nghề cá thực sự bền vững
Trả lời phỏng vấn Báo Pháp luật Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch thường trực Hội Thủy sản Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam nêu bật những kết quả đã đạt được trong nỗ lực gỡ cảnh báo 'thẻ vàng' IUU; đồng thời nhấn mạnh một số giải pháp đồng bộ, căn cơ, mang tính dài hạn để có một nghề cá thực sự bền vững.
Thưa ông, việc gỡ cảnh báo “thẻ vàng”của Ủy ban châu Âu (EC) về khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU) có ý nghĩa như thế nào đối với Việt Nam?
- Ngành thủy sản nước ta muốn vươn tầm thế giới thì phải tuân theo quy định của Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới (FAO), đó là phát triển nghề cá bền vững và có trách nhiệm. Khai thác hải sản IUU là một trong những biểu hiện của nghề cá chưa có trách nhiệm, thiếu bền vững. Do đó, trong 8 năm qua ngành thủy sản nước ta cùng hệ thống chính trị đã và đang phải nỗ lực phấn đấu để gỡ được cảnh báo “thẻ vàng” của EC, ngăn chặn, thậm chí đi đến loại bỏ (triệt tiêu) IUU trong tương lai. Đó cũng là giải pháp để nâng cao vị thế của ngành thủy sản và hàng hóa thủy sản nước ta, đồng nghĩa với việc nâng vị thế và quảng bá hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
Bởi, chúng ta đều biết thủy sản cũng là ngành tiên phong trong hội nhập quốc tế của Việt Nam, là một trong những ngành tham gia thị phần xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam. Các nỗ lực của ngư dân, của toàn hệ thống chính trị cùng với ngành và các địa phương có biển sẽ giúp ngành thủy sản lấy lại được uy tín của mình và hoàn thành được sứ mạng là giữ gìn được một nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quý giá cho không chỉ thế hệ hôm nay, mà còn cho những thế hệ mai sau. Bởi lẽ, trên thực tế, thủy sản cùng với các sản phẩm nông nghiệp khác được đánh giá là “trụ đỡ của nền kinh tế” nước ta, dù đất nước ta đã bước sang xây dựng một nền kinh tế hiện đại, tiên tiến trong kỷ nguyên mới.
Trong bối cảnh đó, ông đánh giá như thế nào về những nỗ lực cũng như kết quả mà chúng ta đã đạt được nhằm gỡ cảnh báo “thẻ vàng” IUU của EC?
- Có thể nói, chúng ta đã hết sức quyết liệt, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc ngay từ đầu với quyết tâm cao, chỉ đạo quyết liệt và bằng các giải pháp đồng bộ từ thể chế đến thực thi pháp luật, phối hợp quản lý “tại nguồn” của các cấp địa phương có biển. Do đó, chúng ta đã đạt được những thành tựu cơ bản, bám sát yêu cầu của EC trong quá trình xử lý các tình huống và được EC ghi nhận. Đồng thời định kỳ phối hợp với các ban, ngành và cả EC để trao đổi kinh nghiệm, có những giải pháp thực tiễn hơn, tiến tới mục tiêu gỡ được “thẻ vàng” của EC nhanh hơn.
Tôi cho rằng, điểm làm được đầu tiên là chúng ta đã nhận diện và lần đầu tiên đưa được 14 quy định về đánh bắt cá IUU vào Luật Thủy sản (2017), rất kịp thời. Sau đó, trong quá trình thực hiện, chúng ta thấy rằng mức độ tuân thủ rất khác nhau và cần phải có một chế tài mạnh. Vì vậy, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác IUU và phát triển bền vững ngành thủy sản. Chính phủ cũng ban hành mức phạt tăng nặng và đến nay đã xử lý hình sự bước đầu 21 vụ việc về IUU. Sự vào cuộc rất quyết liệt của cả hệ thống chính trị cũng thể hiện ở vai trò giám sát của Quốc hội. Quốc hội hàng năm định kỳ theo chu kỳ của EC vào kiểm tra đều có những giám sát để kịp thời rút ra những bài học thực tiễn và có những giải pháp xử lý một cách sát sao hơn.
Về công tác phối hợp ở cấp địa phương, các ban, ngành, cơ quan, đơn vị cũng như bản thân các tổ chức nghề cá của người dân đều đã quan tâm, vào cuộc quyết liệt. Bởi, việc gỡ “thẻ vàng” của EC là sự quan tâm chung, chứ không phải của riêng ai hay của tổ chức. Vì tương lai của cả ngành thủy sản Việt Nam, của các thế hệ ngư dân chúng ta ở các tỉnh ven biển chúng ta phải hành động ngay từ bây giờ.
Ngoài ra, Nhà nước cũng đã thay đổi các cơ chế, chính sách mới, đặc biệt là có các chính sách ưu đãi, có tính đặc thù để nhanh chóng hỗ trợ trang bị được các hệ thống thông tin liên lạc hiện đại cho các tàu thuyền đánh cá; triển khai hệ thống cấp phép, theo dõi, giám sát hành trình để ghi lại và giám sát những di biến động trên biển cũng như thời hạn cấp phép hoạt động ban đầu của tàu, thuyền. Cùng với đó, chúng ta cũng đã thanh lý những con tàu cũ, không đáp ứng yêu cầu hoạt động; kiên quyết ngăn chặn những trường hợp cố tình vi phạm…
Điểm lại như vậy để thấy rằng những việc mà chúng ta đã làm được là rất toàn diện, đưa đến sự thay đổi về nhận thức và từ nhận thức đó đã tác động vào sự thay đổi hành vi. Chúng ta thấy rằng một trong những kết quả là số lượng tàu thuyền vi phạm đã giảm dần theo thời gian.
Về sự chấp hành ở địa phương, tôi cho rằng một số địa phương đã làm rất tốt. Chính phủ và ngành cần có những đánh giá đúng và khen thưởng kịp thời để các địa phương đã làm tốt thì cần làm tốt hơn nữa, còn những địa phương mà sự phối hợp còn lỏng lẻo thì cần phối hợp, học hỏi lẫn nhau. Ở cấp độ Nhà nước, có thể tổ chức các diễn đàn để chia sẻ các bài học kinh nghiệm kịp thời với các chuyên gia, nhà quản lý và đại diện ngư dân để các địa phương khác có thể học tập theo.
Tuy nhiên, nếu nhìn toàn diện hơn, có thể nói rằng kết quả đạt được chưa đồng đều. Đây cũng là một thực tiễn. Số lượng tàu thuyền được trang bị đáp ứng yêu cầu vẫn chưa “phủ” hết các đối tượng chúng ta mong muốn. Tất nhiên, những trường hợp cố tình vi phạm cũng chỉ là “con sâu bỏ rầu nồi canh” nhưng chúng ta phải nhớ là EC rất quyết liệt, đưa ra yêu cầu rất khắt khe rằng chỉ 1 tàu vi phạm thì vẫn là vi phạm. Do đó, chúng ta phải tiến hành trên tổng thể và toàn diện để làm sao đáp ứng được mục đích và yêu cầu của EC trong thời gian sớm nhất.
Tôi cho rằng, qua 8 năm kể từ khi EC đưa ra cảnh báo “thẻ vàng” IUU đối với sản phẩm hải sản đánh bắt để xuất khẩu của Việt Nam, khoảng cách giữa các yêu cầu của EC về chống đánh bắt IUU và các điều kiện, tiêu chí cơ bản để chúng ta có thể gỡ được “thẻ vàng” đã ngày càng được thu hẹp. Song, chúng ta vẫn phải phấn đấu để đến khi đoàn kiểm tra của EC vào thanh tra sẽ đánh giá chúng ta đã thực sự đáp ứng được yêu cầu và gỡ cảnh báo. Đây là hy vọng của không chỉ cá nhân tôi mà cũng là hy vọng của các ngư dân, ngành thủy sản và cả đất nước chúng ta.
Để phát triển ngành thủy sản một cách bền vững, theo ông, cần tập trung vào những giải pháp gì?
- Tôi cho rằng, sau khi đã được gỡ cảnh báo “thẻ vàng” của EC rồi thì chúng ta phải yêu cầu ngư dân tiếp tục phát huy thành quả đó để duy trì kết quả đã làm được. Khi đó, chúng ta phải hướng tới áp dụng những giải pháp đồng bộ, căn cơ, mang tính dài hạn để có một nghề cá thực sự bền vững. Các giải pháp phát triển bền vững rất nhiều, trong đó có một số giải pháp chính.
Thứ nhất, phải phục hồi, bảo vệ được nguồn lợi hải sản tốt nhất, như duy trì các khu bảo tồn biển đã được thiết lập từ năm 2010 để tạo ra hiệu ứng tràn, phát tán nguồn lợi thủy sản ra toàn vùng biển còn lại. Thứ hai, đặc trưng nghề cá của chúng ta là nghề cá đa loài nên cần có những phương pháp đánh chọn lọc, giảm lượng cá tạp. Thứ ba, cần có các biện pháp như đóng vùng biển, cho biển nghỉ một thời gian ngắn theo kiểu luân phiên. Thứ tư, giảm cường lực, tức giảm lượng tàu cá, đặc biệt là những tàu có nguy cơ hủy hoại nguồn lợi. Thứ năm, cùng với đó là vấn đề sinh kế và chuyển đổi nghề cho ngư dân.
Tôi cho rằng việc quản trị nghề cá thời gian tới cần phải có những điều chỉnh, thay đổi. Trước kia, Luật Thủy sản 2017 chỉ quy định thực hiện đồng quản lý trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhưng hiện nay chúng ta nên mở rộng “đồng quản lý nghề cá nhỏ” gắn với cải thiện sinh kế ngư dân, chuyển đổi sinh kế. Muốn chuyển đổi sinh kế thì phải bám vào những sinh kế khả thi, phù hợp với tinh thần của các nghị quyết như Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chẳng hạn như, Nghị quyết khuyến khích phát triển những ngành kinh tế biển bền vững khác như năng lượng tái tạo, dược liệu biển, nghề cá giải trí... Ví dụ, để ngư dân thôi đánh bắt thì có thể chuyển sang nuôi trồng con, cây làm đầu vào nguyên liệu cho dược liệu biển trong tương lai. Hay phát triển nghề cá thân thiện như nghề cá giải trí tạo nên lợi ích kép cùng với phát triển du lịch cộng đồng thay vì đánh bắt cá thì chúng ta ngắm cá, câu cá giải trí... Cùng với đó, cần phải có các biện pháp nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức cho ngư dân, hỗ trợ ngư dân để hiện đại hóa nghề cá và khi đó chúng ta mới có nghề cá bền vững lâu dài, để ngư dân yên tâm bám biển. Tức là phải huy động sức dân và các doanh nghiệp (người sử dụng biển) tham gia bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ biển và phát triển nghề cá bền vững, có trách nhiệm trong kỷ nguyên vươn mình.
Chúng ta phải nhận thức rằng ngư dân không chỉ đi ra biển để tìm sinh kế cho gia đình và đóng góp vào thị phần xuất khẩu cho đất nước mà mỗi người dân, mỗi con thuyền của họ đều là những “cột mốc sống trên biển” để khẳng định chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Họ chỉ bám biển thì mới là ngư dân và chỉ có bám biển thì họ mới có sinh kế và chỉ có bám biển thì họ mới thực hiện được nghĩa vụ, sứ mạng chính trị của người ngư dân Việt Nam đối với Tổ quốc.
Xin trân trọng cảm ơn ông!











