Phân loại 8 nhóm dự án đầu tư xanh

Theo dự thảo danh mục phân loại xanh, các dự án đầu tư xanh dự kiến gồm 8 nhóm: năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên nước, nông- lâm- thủy sản, đa dạng sinh học, chế biến- chế tạo, dịch vụ môi trường...

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Tại cuộc họp về thúc đẩy tài chính xanh hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam diễn ra ngày 25/3/2025, các chuyên gia cho biết hiện nay, vấn đề tài chính xanh đã được luật hóa trong Luật Bảo vệ môi trường là tín dụng xanh và tài chính xanh.

Theo Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), công cụ tín dụng xanh được các tổ chức tín dụng cho vay đối với các nhu cầu tiêu dùng, đầu tư, sản xuất kinh doanh mà không gây rủi ro đến môi trường, góp phần bảo vệ hệ sinh thái chung.

Trong khi đó, trái phiếu xanh do chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp phát hành. Về bản chất, đây đều là các khoản vay xanh, huy động vốn cho hoạt động bảo vệ môi trường, dự án đầu tư mang lại lợi ích về môi trường.

Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường xây dựng Danh mục phân loại xanh, trong đó bao gồm tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh. Thực tiễn hiện nay có tới hơn 4.000 loại hình dự án đầu tư khác nhau nên công tác xây dựng danh mục đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định, yêu cầu về quản lý môi trường của Việt Nam và kế thừa kinh nghiệm quốc tế.

Theo dự thảo, các dự án đầu tư trong Danh mục phân loại xanh có 8 nhóm, bao gồm: năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên nước, nông- lâm- thủy sản, đa dạng sinh học, chế biến- chế tạo, dịch vụ môi trường.

Đáng chú ý, trong dự thảo, Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Môi trường đề xuất theo hướng quy định tổ chức xác nhận độc lập sẽ đứng ra xác nhận dự án thuộc danh mục phân loại xanh. Cùng với đó là yêu cầu đối với tổ chức xác nhận độc lập, như có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật, có hệ thống quản lý và năng lực hoạt động đáp ứng một trong những tiêu chuẩn, chuẩn mực nhất định. Đối tượng hướng đến là các tổ chức kiểm toán hoặc tổ chức có loại hình kinh doanh đánh giá sự phù hợp.

Dự thảo danh mục phân loại xanh cũng yêu cầu doanh nghiệp cần đưa ra căn cứ để chứng tỏ doanh nghiệp sẽ giảm thiểu tối đa các tác động tới môi trường khi triển khai dự án, dù là dự án xanh.

Về các tiêu chí cụ thể, các dự án phải thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường, mang lợi ích môi trường (theo Điều 149, 150 Luật Bảo vệ môi trường) và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật. Đó là yêu cầu quản lý về môi trường hoặc thông số kỹ thuật của nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, thiết bị, sản phẩm, hàng hóa, chất thải, quy trình sản xuất, kinh doanh của dự án đầu tư để chứng minh dự án đáp ứng tiêu chí môi trường để được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh.

Trao đổi vấn đề này, theo các chuyên gia, dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam hiện tập trung chủ yếu vào lĩnh vực năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.

Qua khảo sát và đánh giá của các chuyên gia, để thúc đẩy tài chính xanh tại Việt Nam, giải pháp trọng yếu là xây dựng chiến lược tổng thể về tài chính xanh, đảm bảo sự nhất quán với Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia. Trong đó xác định vai trò của các bên liên quan và thành lập cơ quan đầu mối quốc gia để điều phối việc thực hiện tăng trưởng xanh.

Các chuyên gia cho rằng việc xây dựng Danh mục phân loại xanh và cơ chế cập nhật định kỳ cần đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với xu thế phát triển công nghệ carbon thấp; hoàn thiện hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.

Mặt khác, nhà nước cần thiết lập một nền tảng cơ sở dữ liệu quốc gia để theo dõi và công bố thông tin về các sản phẩm tài chính xanh rộng rãi. Đây là những nền tảng căn bản giúp hệ thống tài chính xanh có thể hoạt động ổn định, trở thành đòn bẩy cho các dự án xanh hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam.

Theo báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam đặt mục tiêu giảm 15,8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường, và tỷ lệ này sẽ đạt 43,5% nếu có hỗ trợ quốc tế. Tương ứng với đó, nhu cầu tài chính lần lượt là 21,5 tỷ USD và 86,8 tỷ USD. Trong đó, hỗ trợ quốc tế chủ yếu dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ưu đãi, hỗ trợ công nghệ và xây dựng năng lực.

Các nghiên cứu cho thấy chi phí ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam ước tính chiếm từ 3- 5% GDP/năm. Với cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đã và đang thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân trong và ngoài nước, nỗ lực huy động các quỹ đầu tư nước ngoài về tăng trưởng xanh, ứng phó biến đổi khí hậu.

Năm 2017, từ chỉ có 5 tổ chức tín dụng tham gia tín dụng xanh, đến nay đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ vào khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%. Đặc biệt, dư nợ tín dụng mà các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng đánh giá về các rủi ro môi trường đã tăng lên khoảng 3,2 triệu tỷ đồng trong tổng số dư nợ của cả hệ thống là 15 triệu tỷ đồng.

Hằng Anh

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/phan-loai-8-nhom-du-an-dau-tu-xanh.htm