Phát hiện các loài thú cực kỳ bí ẩn ở Việt Nam

Tổ chức Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) vừa công bố hình ảnh những loài thú vô cùng bí ẩn và hiếm gặp ở Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua. Đây là kết quả của đợt bẫy ảnh lớn nhất lịch sử tại 21 khu vực rừng đặc dụng Việt Nam kéo dài bốn năm.

Trong khuôn khổ Dự án Bảo tồn Đa dạng Sinh học do USAID tài trợ, WWF-Việt Nam và WWF-Hoa Kỳ phối hợp với các Ban quản lý rừng địa phương và Viện nghiên cứu Động vật hoang dã Leibniz thực hiện khảo sát và đặt bẫy ảnh tại 21 khu rừng đặc dụng tại Việt Nam.

Dự án nhằm nghiên cứu nhằm theo dõi những thay đổi quan trọng trong quần thể các loài thú và chim sống dưới mặt đất, đồng thời đánh giá hiệu quả các nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học đang được triển khai.

Kết quả khảo sát cho thấy, mức độ phong phú của các loài thú và chim đang có chiều hướng gia tăng – dấu hiệu tích cực cho sự phục hồi của hệ sinh thái. Tuy nhiên, các mối đe dọa vẫn tồn tại dai dẳng, đặc biệt là nạn đặt bẫy, khiến những thành quả này trở nên mong manh.

 Loài Cầy giông đốm lớn được ghi nhận trong đợt bẫy ảnh năm 2024. Đây là loài thuộc nhóm cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam và cực kỳ hiếm gặp trong thực tế.

Loài Cầy giông đốm lớn được ghi nhận trong đợt bẫy ảnh năm 2024. Đây là loài thuộc nhóm cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam và cực kỳ hiếm gặp trong thực tế.

Khảo sát ghi nhận ít nhất 49 loài thú và 11 loài chim trĩ, trong đó có 9 loài đặc hữu của Trung Trường Sơn và 22 loài bị đe dọa toàn cầu.

Đáng chú ý nhất là các bằng chứng ghi nhận mang lớn, gấu ngựa và cầy giông đốm lớn - đây là những ghi nhận hiếm hoi về các loài này trong hai thập kỷ qua. Đặc biệt, tỷ lệ xuất hiện của tê tê đã tăng tại nhiều khu vực, nhất là tại Vườn Quốc gia Cát Tiên. Nhìn chung, mức độ phong phú loài tăng đáng kể tại 16 địa điểm, và không có nơi nào ghi nhận sự suy giảm.

Tuy nhiên, kết quả khảo sát cũng ghi nhận sự vắng mặt của các loài thú ăn thịt và thú ăn cỏ cỡ trung bình hoặc lớn (như hổ, báo hoa mai, báo gấm, mèo rừng vàng châu Á, và sao la) cho thấy hậu quả của nạn đặt bẫy kéo dài trong nhiều thập kỷ.

 Loài mang lớn được ghi nhận trong lần bẫy ảnh vừa qua. Đây cũng là loài được xếp vào nhóm cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam với số lượng cá thể đã suy giảm khoảng 80% trong 30 năm qua. Loài này chỉ bắt gặp ở những khu rừng nguyên sinh trên dãy Trường Sơn, trong những cánh rừng sâu.

Loài mang lớn được ghi nhận trong lần bẫy ảnh vừa qua. Đây cũng là loài được xếp vào nhóm cực kỳ nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam với số lượng cá thể đã suy giảm khoảng 80% trong 30 năm qua. Loài này chỉ bắt gặp ở những khu rừng nguyên sinh trên dãy Trường Sơn, trong những cánh rừng sâu.

Theo các chuyên gia của WWF- Việt Nam, hầu hết các loài được ghi nhận là những loài có khả năng phục hồi trước các áp lực săn bắt cao. Các dữ liệu cho thấy chúng chủ yếu xuất hiện ở những khu vực xa xôi, khó tiếp cận.

Khảo sát năm 2024 tiếp nối kết quả khảo sát đầu tiên cũng do dự án thực hiện năm 2019-2022, cho phép so sánh và theo dõi xu hướng đa dạng sinh học của 21 khu vực theo thời gian.

Kết quả khảo sát đóng góp trực tiếp cho các chỉ số giám sát đa dạng sinh học quốc gia và quốc tế, đồng thời hỗ trợ các khu bảo tồn xác định vùng ưu tiên từ đó phân bổ nguồn lực bảo tồn hiệu quả hơn.

 Loài Cầy vằn được ghi nhận trong đợt bẫy ảnh vừa qua. Đây cũng là loài được xếp vào nhóm cực kỳ nguy cấp và vô cùng hiếm gặp trong tự nhiên dù chúng từng có một vùng phân bố rất rộng lớn ở Việt Nam.

Loài Cầy vằn được ghi nhận trong đợt bẫy ảnh vừa qua. Đây cũng là loài được xếp vào nhóm cực kỳ nguy cấp và vô cùng hiếm gặp trong tự nhiên dù chúng từng có một vùng phân bố rất rộng lớn ở Việt Nam.

Theo ông Nguyễn Quang Hòa Anh, Chuyên gia Đa dạng Sinh học, WWF-Việt Nam, rừng Việt Nam vẫn là nhà của nhiều loài động vật có giá trị toàn cầu. Những tín hiệu phục hồi đáng khích lệ cho thấy thiên nhiên có thể tái sinh khi có cơ hội.

"Tuy nhiên, sự phục hồi bền vững chỉ có thể đạt được nếu có sự hợp tác chặt chẽ và lâu dài giữa chính quyền các cấp, cộng đồng và các đối tác bảo tồn nhằm chấm dứt các mối đe dọa đối với các loài hoang dã, đặc biệt là nạn đặt bẫy tràn lan", ông Hòa Anh nói.

 Loài Bò tót được ghi nhận trong đợt bẫy ảnh lần này. Đây là loài thuộc nhóm nguy cấp với số lượng cá thể suy giảm khoảng 50% trong 30 năm qua.

Loài Bò tót được ghi nhận trong đợt bẫy ảnh lần này. Đây là loài thuộc nhóm nguy cấp với số lượng cá thể suy giảm khoảng 50% trong 30 năm qua.

Báo cáo từ kết quả khảo sát khuyến nghị lặp lại khảo sát đa dạng sinh học định kỳ 3–5 năm/lần nhằm giám sát dài hạn các loài động vật hoang dã của Việt Nam, đồng thời đáp ứng các cam kết bảo tồn trong nước và quốc tế.

Trong tương lai, việc khảo sát cần một hoặc nhiều viện nghiên cứu của nhà nước phụ trách, do mức độ phức tạp trong triển khai khảo sát và phân tích dữ liệu.

Đặc biệt, Báo cáo kêu gọi các tổ chức bảo tồn, chính phủ cân nhắc các chương trình tái thả các loài hoang dã về các sinh cảnh trước đây của chúng, hoặc tại các sinh cảnh có số lượng quần thể quá ít, giúp duy trì và phục hồi các hệ sinh thái rừng Việt Nam.

Nguyễn Hoài

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/phat-hien-cac-loai-thu-cuc-ky-bi-an-o-viet-nam-post1794303.tpo