Phát huy, bảo vệ giá trị nguồn tài nguyên đất hiếm
Theo thông tin Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố chính thức mới đây, ước tính Việt Nam có trữ lượng đất hiếm đứng thứ 2 hoặc 3 thế giới, phân bố tại 21 tỉnh, thành.
Trong thời đại công nghiệp, đất hiếm là nguồn nguyên vật liệu vô cùng quan trọng trong nhiều ngành sản xuất, là nguồn lực và thế mạnh của những quốc gia sở hữu. Vì vậy, khi dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Địa chất và Khoáng sản được đưa ra thảo luận, đã nhận được rất nhiều ý kiến của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH).
Một ĐBQH đánh giá, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, quản lý và làm chủ công nghệ đất hiếm là một yếu tố then chốt để khẳng định, phát huy năng lực tự cường. Đất hiếm là nền tảng công nghệ lõi nhiều loại vũ khí, đặc biệt là vũ khí chính xác cao, nên cần tiếp cận dưới góc độ an ninh - quốc phòng (ANQP) ngay từ luật. Dự thảo đã quy định khu vực dự trữ đất hiếm, tuy nhiên đại biểu đề nghị phải có mỏ hoặc khu dự trữ dành riêng cho mục đích ANQP. Cùng với đó, luật cần bổ sung quy định kiểm soát công nghệ và dữ liệu đất hiếm, nhất là dữ liệu liên quan ANQP, vì dữ liệu đất hiếm có thể thuộc diện bí mật Nhà nước. Cũng cần làm rõ vai trò của Bộ Quốc phòng trong thẩm định chương trình, thẩm định khai thác mỏ; và các chương trình quốc gia về đất hiếm phải có ý kiến của Bộ Quốc phòng.
Góp ý ở một khía cạnh khác, một ĐBQH nhấn mạnh, đất hiếm là tài nguyên chiến lược của nhiều ngành then chốt như bán dẫn, xe điện, ANQP nên luật phải quản lý thống nhất ở cấp quốc gia và đặt an toàn môi trường lên hàng đầu. Vì quá trình tuyển tách, chế biến đất hiếm luôn phát sinh chất thải độc hại, kim loại nặng, dung dịch axit khó xử lý. Có quốc gia từng khai thác ồ ạt nhưng thiếu kiểm soát đã để lại vùng ô nhiễm tồn lưu, chi phí phục hồi môi trường lớn hơn nhiều lần giá trị kinh tế thu được. Ngay tại Việt Nam, một vụ án khai thác đất hiếm trái phép từng xảy ra cũng đã chứng minh thực tế trên.
Vì vậy, cần áp dụng công nghệ tuyển tách khép kín, quan trắc môi trường liên tục, phương án xử lý bùn thải đạt chuẩn. Cơ quan chức năng cần giám sát độc lập toàn bộ quy trình, từ đánh giá công nghệ, rủi ro đến kiểm tra hiện trường, xử lý chất thải. Để bảo vệ môi trường, có thể mời bên thứ ba đánh giá rủi ro môi trường độc lập; yêu cầu DN ký quỹ cao hơn mỏ khoáng sản thông thường; công bố định kỳ dữ liệu môi trường để bảo đảm minh bạch, phát triển bền vững…
Một lưu ý khác, khai thác đất hiếm đòi hỏi công nghệ cao và đánh giá môi trường kỹ lưỡng. Vì vậy, cần có cơ chế thu hút nhà đầu tư có năng lực thực sự, có công nghệ hiện đại, ưu tiên dây chuyền chế biến sâu; chứ không được dễ dãi chấp nhận khai thác thô.
Trong bối cảnh Việt Nam chưa có nhà máy chế biến tinh quặng đất hiếm thành sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; DN chưa làm chủ công nghệ tạo ra sản phẩm có hàm lượng đạt yêu cầu, cũng như chưa có công nghệ tách chiết các nguyên tố riêng rẽ; thì những góp ý nêu trên của các ĐBQH là rất hợp lý, chính xác. Nguồn tài nguyên trời ban đã có, chúng ta phải quản lý chặt chẽ, đi đôi với chiến lược đầu tư công nghệ dài hạn; phát triển ngành đất hiếm bền vững, hình thành chuỗi giá trị khép kín, hạn chế tối đa xuất khẩu thô; để đất hiếm phát huy vai trò nguồn tài nguyên quan trọng bậc nhất trong kỷ nguyên số.
Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/phat-huy-bao-ve-gia-tri-nguon-tai-nguyen-dat-hiem.html













