Phạt lao động công ích: Cần thiết nhưng phải chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt pháp lý
Việc bổ sung hình thức phạt lao động công ích là bước đổi mới cần thiết, nhưng đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt pháp lý để có thể xây dựng một mô hình phạt lao động công ích vừa nghiêm khắc, vừa nhân văn.
Phạt lao động công ích (lao động phục vụ cộng đồng) đang được đề xuất bổ sung vào hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính ở Việt Nam. Đây là hình thức buộc người vi phạm dành thời gian lao động không lương phục vụ lợi ích công cộng, nhằm giáo dục và răn đe thay vì chỉ phạt tiền.
Để bổ sung hình thức phạt này, Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) cần được sửa đổi, bổ sung khá toàn diện: từ điều khoản về hình thức xử phạt, đến mục quy định chi tiết về chế tài này, cùng các thủ tục thi hành và điều kiện đảm bảo.
Sự điều chỉnh pháp luật phải đồng bộ, rõ ràng để khi áp dụng trên thực tế không bị vướng mắc hay tranh cãi về căn cứ pháp lý.

Đề xuất phạt lao động công ích đối với hành vi vi phạm giao thông. Ảnh: HOÀNG GIANG
Liệt kê rõ phạm vi và điều kiện áp dụng
Luật XLVPHC năm 2012 và các lần sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2017, 2020, 2022 và 2025 đều chưa có quy định về phạt lao động công ích, vì vậy muốn bổ sung hình thức xử phạt này cần sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trọng yếu của luật nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp.
Trước hết, cần bổ sung “phạt lao động công ích” vào danh mục các hình thức xử phạt tại Điều 21 Luật XLVPHC. Việc luật minh định rõ địa vị pháp lý của chế tài này là bước đầu tiên bảo đảm các quyết định xử phạt có căn cứ pháp luật.
Tiếp theo, cần xây dựng một điều khoản hoặc mục riêng quy định chi tiết về chế tài lao động công ích trong Luật XLVPHC. Quy định này phải nêu đầy đủ các yếu tố: định nghĩa lao động công ích là gì; phạm vi áp dụng (những vi phạm hành chính nào, lĩnh vực nào được áp dụng; điều kiện áp dụng - ví dụ số lần tái phạm, mức độ vi phạm); thời lượng lao động tối thiểu, tối đa; đối tượng không áp dụng (miễn trừ đối với người già yếu, phụ nữ mang thai, người dưới một độ tuổi nhất định…); quyền và nghĩa vụ của người bị xử phạt; và danh mục các công việc công ích phù hợp có thể được giao.

ThS Nguyễn Nhật Khanh, Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM
Việc liệt kê rõ phạm vi và điều kiện áp dụng là rất quan trọng để bảo đảm tính hợp pháp, minh bạch, tránh tình trạng áp dụng tùy tiện hoặc vượt quá giới hạn luật cho phép. Chẳng hạn, có thể quy định người vi phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc tái phạm nhiều lần trong lĩnh vực giao thông sẽ chịu phạt lao động công ích 20-30 giờ, còn vi phạm nhẹ hơn vẫn chỉ phạt tiền. Những người không đủ sức khỏe lao động hoặc ở độ tuổi quá cao cần được loại trừ để bảo đảm nhân đạo và khả thi.
Có thể cho phép người vi phạm lựa chọn lao động công ích
Khác với phạt tiền (người vi phạm chỉ cần nộp tiền) hay tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề (nộp lại giấy tờ), chế tài phạt lao động công ích đòi hỏi sự phối hợp tổ chức thi hành phức tạp hơn. Do đó, luật cần bổ sung quy định về trình tự, thủ tục thi hành quyết định phạt lao động công ích.
Có thể quy định giao địa phương phối hợp thực hiện
Quyết định xử phạt có thể do lực lượng công an ban hành nhưng việc tổ chức cho người vi phạm lao động công ích có thể giao cho UBND cấp xã nơi người đó cư trú phối hợp thực hiện, dưới sự giám sát của cơ quan công an.
Sau khi người vi phạm hoàn thành số giờ lao động được giao, phải có biên bản xác nhận hoàn thành để ghi nhận việc thi hành quyết định xử phạt tương tự biên lai nộp phạt tiền.
Trường hợp người vi phạm không chấp hành hoặc trốn tránh, luật cũng cần quy định biện pháp xử lý như cưỡng chế thi hành quyết định phạt lao động công ích.
Một điểm sửa đổi quan trọng nữa là bảo đảm quy định mới phù hợp với Hiến pháp và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tại khoản 3 Điều 35 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) nghiêm cấm cưỡng bức lao động. Vì vậy, điều luật về phạt lao động công ích phải được thiết kế chặt chẽ để không bị coi là vi hiến. Có thể cân nhắc quy định theo hướng đây là biện pháp chế tài thay thế mang tính tự nguyện một phần, chẳng hạn cho phép người vi phạm lựa chọn lao động công ích thay vì nộp phạt tiền trong một số trường hợp.
Nếu người vi phạm đồng ý nhận lao động công ích thay thế, về bản chất đó là họ tự nguyện chấp hành một biện pháp do pháp luật quy định, giảm yếu tố “cưỡng bức”.
Kinh nghiệm từ nước Pháp cho thấy, án lao động phục vụ cộng đồng (TIG) ở Pháp yêu cầu người phạm tội phải đồng ý tự nguyện thì tòa án mới áp dụng hình phạt này, nhằm đảm bảo không vi phạm quyền tự do lao động của họ.
Việt Nam có thể tham khảo cách tiếp cận này: quy định người vi phạm có quyền từ chối lao động công ích, nhưng khi đó phải chấp nhận hình thức xử phạt khác (ví dụ phạt tiền hoặc tước quyền khác nặng hơn).
Tuân thủ các nguyên tắc pháp lý cơ bản
Việc bổ sung chế tài lao động công ích vào Luật XLVPHC phải tuân thủ một số nguyên tắc pháp lý cơ bản như sau:
Một là, bảo đảm hợp hiến và tuân thủ điều ước quốc tế: phạt lao động công ích phải được thiết kế sao cho không vi phạm lệnh cấm cưỡng bức lao động của Hiến pháp và Công ước ILO 29.
Nguyên tắc ở đây là chỉ được buộc lao động dựa trên quy định của luật và quyết định hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền, với mục đích giáo dục, không nhằm trục lợi. Công việc lao động công ích phải vì lợi ích cộng đồng, không phục vụ lợi ích thương mại của tư nhân (tránh biến tướng thành bóc lột lao động miễn phí).
Điều này phù hợp với chuẩn mực quốc tế: Công ước ILO cho phép lao động bắt buộc nếu đó là hình phạt do tòa án tuyên cho một tội danh, dưới sự giám sát của cơ quan công quyền. Do đó, luật cần nêu rõ lao động công ích là một hình thức chế tài hợp pháp, được người vi phạm thực hiện dưới giám sát nhà nước, không phải lao động trái phép.
Hai là, bảo đảm tính công bằng, không phân biệt đối tượng: phạt lao động công ích phải được áp dụng bình đẳng cho mọi đối tượng vi phạm trong cùng hoàn cảnh, tránh tình trạng thiên vị hay lợi dụng. Nguyên tắc này đòi hỏi luật quy định rõ tiêu chí áp dụng (số lần tái phạm, nồng độ cồn bao nhiêu, vượt tốc độ bao nhiêu lần...) để ai đáp ứng tiêu chí thì bị phạt công ích như nhau. Đồng thời, cần ngăn ngừa việc người có tiền “mua chuộc” để không phải lao động công ích hoặc ngược lại người nghèo bị ép lao động nặng.
Một giải pháp là có thể cho phép kết hợp phạt tiền song song lao động công ích đối với vi phạm nghiêm trọng – vừa thu tiền phạt vào ngân sách, vừa buộc người vi phạm đích thân đóng góp công sức cho xã hội. Tuy nhiên, việc kết hợp phải cân nhắc để không tạo gánh nặng quá mức và vẫn bảo đảm tương xứng với hành vi.
Ba là, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người bị xử phạt. Trong quá trình thi hành lao động công ích, người vi phạm cần được đối xử nhân đạo, an toàn, được cung cấp phương tiện bảo hộ lao động nếu làm công việc vệ sinh, xây dựng; nếu xảy ra tai nạn lao động thì phải được chăm sóc y tế như một công dân bình thường. Ngoài ra, cần tôn trọng thời gian lao động chính đáng của họ. Nếu người bị phạt đang có việc làm, việc bố trí lao động công ích nên linh hoạt ngoài giờ hoặc cuối tuần, tránh làm họ mất việc. Với người trẻ tuổi còn đi học, có thể bố trí công việc vào kỳ nghỉ hoặc ngày nghỉ.
Bốn là, bảo đảm minh bạch, giám sát chặt chẽ và chống lạm dụng: Đây là nguyên tắc then chốt để chế tài lao động công ích không bị “biến tướng” hoặc thực hiện hình thức. Luật phải quy định rõ ràng quy trình như đã nêu: có quyết định bằng văn bản, có đơn vị tiếp nhận, có người giám sát, có sổ theo dõi giờ công, và công khai kết quả. Việc giám sát nên huy động cả cộng đồng: chẳng hạn, niêm yết công khai danh sách người vi phạm phải lao động công ích và công việc họ làm (trong phạm vi phù hợp) để cộng đồng cùng giám sát, qua đó tăng tính răn đe và minh bạch. Cũng cần có cơ chế phản ánh, khiếu nại nếu người bị phạt cho rằng mình bị ép làm quá giờ hoặc công việc không đúng quy định. Mặt khác, phải phòng ngừa nguy cơ cán bộ thực thi lợi dụng người vi phạm để bắt người vi phạm lao động nặng nhọc hoặc làm việc riêng cho cán bộ thay vì phục vụ cộng đồng. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi hành vi đó phải bị nghiêm cấm và xử lý, đảm bảo người vi phạm chỉ làm công việc công ích được phê duyệt, không bị xâm phạm nhân phẩm.
Nhìn chung, việc bổ sung hình thức phạt lao động công ích vào pháp luật hành chính là bước đổi mới cần thiết, nhưng đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt pháp lý để có thể xây dựng một mô hình phạt lao động công ích vừa nghiêm khắc, vừa nhân văn - góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người vi phạm và mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng.