Phát triển công nghiệp văn hóa trên nền tảng di sản làng nghề truyền thống vùng Cố đô Hoa Lư: (Kỳ I): Di sản sống giữa lòng Cố đô
Kinh đô Hoa Lư - Đế đô đầu tiên của nước Đại Việt - một đô thị, cảng thị Trung đại tựa núi, nhìn sông, hướng ra biển Đông của khu vực phía Bắc. Nơi đây không chỉ ghi dấu ấn bởi những công trình kiến trúc đậm hồn dân tộc, mà còn phát tích nhiều nghề thủ công truyền thống được xem như những 'mảnh ghép chức năng' trong hệ sinh thái kinh đô, góp phần xây dựng nền kinh tế tự chủ, khẳng định bản sắc văn hóa độc lập của dân tộc. Qua bao thăng trầm, những làng nghề nơi đây vẫn lặng lẽ gìn giữ hồn cốt của kinh đô xưa bằng chính bàn tay và trái tim người thợ, đã và đang trở thành động lực, là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa, kinh tế sáng tạo.

Du khách nước ngoài trải nghiệm nghề thêu Văn Lâm, phường Nam Hoa Lư.
Giữa lòng Cố đô Hoa Lư ngàn năm, các làng nghề không đơn thuần là không gian mưu sinh mà còn là những “bảo tàng sống” của ký ức cung đình, của tín ngưỡng dân gian, của mỹ học thời đại. Mỗi ngôi làng là một câu chuyện, mỗi nghề là một vết khắc sâu đậm trong dòng chảy lịch sử của dân tộc.
Hồn cốt kinh đô còn mãi trong từng sản phẩm
Một buổi sáng mùa hè, khi ánh nắng còn lấp lóa trên dãy núi Tràng An, tôi có dịp trở lại vùng đất từng là trung tâm chính trị đầu tiên của nước Đại Cồ Việt. Trên con đường uốn lượn rợp bóng bồ đề dẫn về thôn Văn Lâm, phường Nam Hoa Lư, âm thanh lách cách từ những khung thêu trong làng Văn Lâm như khơi dậy một thế giới vừa cũ kỹ, vừa sống động. Những con người nơi đây vẫn miệt mài với từng đường kim mũi chỉ, cần mẫn thêu dệt không chỉ hoa văn mà cả chiều dài lịch sử vào từng tấm vải.
Tôi may mắn được gặp bà Đinh Thị Nhi, truyền nhân đời thứ 2 của ông tổ nghề thêu rua - ren ở Văn Lâm. Căn nhà nhỏ của mẹ con bà Nhi nằm trong con ngõ vắng hiếm hoi cạnh bến thuyền Đình Các, nơi mà người dân quen gọi là “phố không ngủ”. Căn nhà hết sức đơn sơ, nội thất trang trí là hàng loạt bức tranh thêu do mẹ con bà làm và những khung thêu bày quanh nhà. Mặc dù là truyền nhân của ông tổ nghề nhưng gia đình bà Nhi tất cả chỉ làm “thợ thêu”. Bà Nhi tâm sự: “Mỗi người thể hiện tình yêu nghề theo cách của mình. Tôi không có tham vọng làm bà chủ, chỉ mong làm một người thợ giỏi, để giữ nghề. Giờ đây, khi tuổi đã cao, mắt đã mờ, tôi chỉ mong sao có lớp trẻ chịu đến học, chịu ngồi bên khung, chúng tôi còn có người để truyền lại. Không phải để nổi tiếng, mà để nghề không mất. Nghề còn là làng còn, là ký ức còn, là gốc gác mình còn”.
Nghề thêu rua - ren truyền thống của vùng đất Văn Lâm đã tạo dựng cho con người nơi đây nhiều đức tính, phẩm chất quý báu, tốt đẹp như cần cù, chịu thương chịu khó, sáng tạo, gu thẩm mỹ cao, ăn ở gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp, chỉn chu... Và cũng chính nghề thêu này đã góp phần hình thành các quy chuẩn thẩm mỹ, đạo đức trong đời sống xã hội của cộng đồng, thêm vào đó là sự giao thoa, tiếp thu, tiếp biến văn hóa châu Âu của văn hóa Việt Nam nói chung, sự giao thoa giữa nghệ thuật thêu rua - ren phương Đông với nghệ thuật rua - ren phương Tây.
Theo các nghệ nhân cao tuổi trong làng, nghề thêu rua - ren ở thôn Văn Lâm có tuổi đời gần ngàn năm. Tương truyền, vào thời nhà Trần, bà Trần Thị Dung, vợ của Thái sư Trần Thủ Độ đã cho các cung nữ truyền dạy cho người dân làng Văn Lâm nghề thêu ren cung đình. Các sản phẩm thêu ngày đó phục vụ nghi thức, nghi lễ trong đời sống văn hóa tâm linh, đặc biệt là trong lễ hội như quần, áo, mũ của đội tế; tàn, lọng, y môn trong các ngôi đình, đền đều có sự đóng góp, sáng tạo của người thợ thêu làng Văn Lâm.
Nghệ nhân Vũ Thành Luân chia sẻ: Theo thời gian nghề thêu truyền thống ở Văn Lâm có sự thay đổi để phù hợp với thời cuộc. Nếu như trước đây là các sản phẩm thêu màu phục vụ cung đình thì đến thời kỳ Pháp thuộc nghề thêu ở Văn Lâm đã thay đổi chủ yếu là các sản phẩm thêu ren - rua để xuất khẩu sang châu Âu. Điều này không chỉ giúp người dân tiếp cận nền văn minh phương Tây mà còn đưa những người khách du lịch từ phương Tây về Văn Lâm. Có thể nói, những yếu tố đó vô tình đã tạo nên những nét ký họa đầu tiên về du lịch ở Ninh Bình.
Trên dải đất hình chữ S, Ninh Bình là vùng đất có nghề gốm xuất hiện khá sớm. Theo các hiện vật khảo cổ được phát hiện tại di tích khảo cổ Mán Bạc, thôn Bạch Liên (xã Đồng Thái) nghề gốm đã phát triển ở khu vực này cách đây khoảng 3.000-4.000 năm trước. Vào thời nhà Đinh, nhiều loại hình vật liệu kiến trúc đặc trưng bằng gốm được các nghệ nhân làng nghề Bồ Bát chế tác phục vụ cho việc xây dựng cố đô Hoa Lư.
Khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long, các nghệ nhân Bồ Bát cũng theo chân nhà Vua và cả bí quyết nghề gốm đến vùng đất ven Sông Hồng (Hà Nội) nơi sau này trở thành làng gốm nổi tiếng Bát Tràng. Từ đó, nghề gốm tại quê cũ dần mai một, để rồi vắng bóng suốt hơn một thiên niên kỷ.
Nghệ nhân trẻ Phạm Văn Vang, người con của thôn Bạch Liên đã thắp lại “lửa nghề” từ đam mê và khát vọng phục hồi nghề gốm Bồ Bát cổ. Từ những tháng năm miệt mài “tầm sư học đạo” tại Bát Tràng, anh trở về quê hương, khởi nghiệp với giấc mơ dựng lại di sản cha ông để lại. Với sự hỗ trợ của chính chỉ rõ, đây là vùng đất “quá độ”, “bản lề” và “liền khoảnh”, mà Đinh Tiên Hoàng Đế sớm nhận ra và khai thác triệt để những lợi thế trời cho này để xây dựng kinh đô đúng tầm của một nhà nước quân chủ tập trung đang trên bước đường khẳng định vị thế của mình. quyền tỉnh về quỹ đất, vốn vay, anh thành lập Công ty TNHH Bảo tồn và Phát triển gốm Bồ Bát, tạo việc làm cho hơn 20 lao động địa phương. “Làm gốm không chỉ là kế sinh nhai, mà là sứ mệnh đánh thức ký ức làng cổ. Tôi luôn tâm niệm phải giữ được hồn cốt gốm Bồ Bát trong từng thớ đất, từng nét hoa văn”, Nghệ nhân Phạm Văn Vang chia sẻ, đôi tay vẫn miệt mài nắn chỉnh dáng bình trên bàn xoay.
Bằng đôi tay cần mẫn và tinh thần đổi mới, các nghệ nhân trẻ hôm nay vừa gìn giữ kỹ thuật cổ truyền, vừa ứng dụng công nghệ hiện đại. Gốm Bồ Bát nay mang diện mạo mới: Từ men trắng cổ vẽ non nước Ninh Bình đến bộ đồ thờ sen vàng đạt chuẩn OCOP 4 sao, sản phẩm của làng không chỉ được ưa chuộng trong nước, mà còn xuất hiện tại các thị trường khó tính như: Nhật Bản, Singapore, Trung Đông…
Tận mắt chứng kiến quy trình làm gốm thủ công, chị Nguyễn Thùy Dung, du khách đến từ Hà Nội xúc động nói: “Tôi không ngờ nghề gốm nức danh Bát Tràng lại có lịch sử lâu đời từ gốm Bồ Bát, Ninh Bình. Cầm trên tay chiếc bình men trắng có vẽ Kinh đô Hoa Lư, tôi cảm nhận được cả một dòng chảy lịch sử vẫn đang sống động trong từng sản phẩm”.
Ngọn lửa nghề xưa từng lụi tàn, nay lại rực sáng từ bàn tay những người con đất tổ. Gốm Bồ Bát, một phần hồn cốt của Cố đô Hoa Lư đang hồi sinh mạnh mẽ giữa dòng chảy sáng tạo của thời đại mới.
Từ làng nghề đến bản sắc quốc gia
GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhận định: Có nhiều người chỉ nhìn thấy Hoa Lư là tòa thành quân sự thủ hiểm, mà không nhận ra đây là vùng đất giao thủy, giao thương, giao rừng, giao biển. Từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước, GS Trần Quốc Vượng đã chỉ rõ, đây là vùng đất “quá độ”, “bản lề” và “liền khoảnh”, mà Đinh Tiên Hoàng Đế sớm nhận ra và khai thác triệt để những lợi thế trời cho này để xây dựng kinh đô đúng tầm của một nhà nước quân chủ tập trung đang trên bước đường khẳng định vị thế của mình.
Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên mà các làng nghề thủ công hình thành sớm và quy tụ quanh trung tâm quyền lực Hoa Lư. Bởi trong bối cảnh nước Đại Cồ Việt còn non trẻ, việc xây dựng một kinh đô vững mạnh đòi hỏi không chỉ về chính trị, quân sự mà còn cả kinh tế và văn hóa. Các làng nghề như thêu ren, chế tác đá, làm gốm, nghề mộc… chính là trụ cột phục vụ cung đình, nghi lễ, kiến trúc và đời sống tinh thần triều đại. Mỗi làng nghề như một “mảnh ghép chức năng” trong hệ sinh thái kinh đô, không chỉ góp phần xây dựng nền kinh tế tự chủ mà còn khẳng định bản sắc văn hóa độc lập của dân tộc Việt.
Từ thêu Văn Lâm, đá Ninh Vân đến gốm Bồ Bát, mỗi làng nghề là một cánh cửa mở ra chiều sâu lịch sử, tín ngưỡng và văn hóa bản địa. Trong bối cảnh Hoa Lư là kinh đô thời kỳ đầu độc lập, việc tổ chức các làng nghề quanh trung tâm chính trị không chỉ nhằm phục vụ nhu cầu triều đình, mà còn là cách kiến tạo một nền kinh tế tự chủ, nâng tầm văn hóa dân tộc và khẳng định vị thế quốc gia.
Chính bởi vậy, việc các làng nghề ấy vẫn được bảo tồn đến ngày nay không đơn thuần là gìn giữ nghề thủ công, mà là bảo tồn ký ức kinh đô, tiếp nối bản sắc và khẳng định chủ quyền văn hóa dân tộc qua từng thế hệ. Giữ gìn và phát triển làng nghề là giữ lấy “sức mạnh mềm” của vùng đất từng là trái tim quốc gia.
(còn nữa)