Phát triển fintech: Dư địa nhiều, rủi ro cũng lớn
Công nghệ tài chính đang phát triển khá nhanh tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới, nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro cho các chủ thể tham gia thị trường và thách thức đối với các cơ quan chức năng trong quản lý, giám sát để không đe dọa đến sự lành mạnh, ổn định của hệ thống tài chính.
Đây là một trong những nội dung được tập trung trao đổi, thảo luận tại Diễn đàn “Xây dựng thương hiệu quốc gia cho công nghệ tài chính ngân hàng Việt Nam”, do Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh tổ chức, ngày 9/12.
Phát triển nhanh chóng
Ông Cấn Văn Lực – Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho biết, tại Việt Nam, công nghệ tài chính (fintech) đang có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ. Theo đó, nếu như năm 2017 cả nước mới có khoảng 74 công ty fintech cạnh tranh trên thị trường, thì đến cuối năm 2019 số lượng các công ty fintech đã tăng gấp đôi lên gần 140 công ty.
Các công ty fintech hiện đầu tư vào rất nhiều lĩnh vực như thanh toán điện tử, tài chính cá nhân, công nghệ bảo hiểm, công nghệ chuỗi khối (blockchain), cho vay, đánh giá điểm tín dụng, quản lý tài sản, gọi vốn cộng đồng… Trong đó, lĩnh vực các công ty fintech tập trung vào nhiều nhất là thanh toán (chiếm tỷ lệ lớn nhất với 47% số công ty và 98% số vốn đầu tư vào fintech Việt Nam năm 2019), tiếp đến là cho vay ngang hàng với 20 công ty…
Tuy nhiên, fintech tại Việt Nam vẫn chưa phát triển bằng các nước ASEAN khác. Đơn cử, đến cuối năm 2019, Singapore có 1.157 công ty fintech và hiện Singapore là trung tâm fintech khu vực với 45% số doanh nghiệp đặt trụ sở và chiếm 51% tổng vốn đầu tư vào fintech tại ASEAN; Indonesia có 511 công ty; Malaysia có 376 công ty, Thái Lan có 216 công ty…
Mặc dù vậy, ông Lực cũng cho rằng, trong tương lai Việt Nam có khá nhiều lợi thế để phát triển fintech, đó là thị trường nội địa lớn, còn nhiều dư địa phát triển, cùng với đó, dân số Việt Nam tương đối trẻ và lượng người sử dụng điện thoại thông minh cao. Mặt khác, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá (dự báo tăng trưởng 6,5 - 7% giai đoạn 2021 - 2030), thu nhập bình quân đầu người tăng 6%/năm, thương mại điện tử tăng nhanh khoảng 25 - 30% trong 5 năm tới. Đặc biệt, các nhà đầu tư bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến Việt Nam, thể hiện ở năm 2019, Việt Nam đứng thứ hai trong thu hút đầu tư fintech tại ASEAN, chỉ sau Singapore…
Đồng quan điểm trên, ông Phạm Xuân Hòe – Nguyên Viện phó Viện Chiến lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cho biết thêm, hiện nay xu hướng phát triển của thị trường fintech ở Việt Nam chủ yếu theo mô hình các công ty fintech liên kết với ngân hàng (chiếm đến hơn 72%) và theo đó, sự liên kết, hợp tác này đã đem lại lợi ích rất lớn cho cả hai bên.
Cụ thể những lợi ích đó là, cải thiện hiệu quả kinh doanh nhờ việc tiết kiệm chi phí, gia tăng quy mô, gia tăng tỷ trọng từ phí dịch vụ, tăng cường khả năng quản trị rủi ro, gia tăng trải nghiệm khách hàng, từ đó hấp dẫn khách hàng, thu hút được lượng khách hàng lớn hơn…
An toàn bảo mật, an ninh mạng là rủi ro lớn nhất
Ông Cấn Văn Lực cho rằng, mặc dù phát triển nhanh, còn nhiều dư địa, tuy nhiên, sự phát triển fintech tại Việt Nam cũng đứng trước không ít những rủi ro, thách thức. Trước hết về mặt pháp lý, chính sách đó là: cơ chế, chính sách hay thay đổi, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán; quy định về hoạt động fintech (dạng sandbox – thử nghiệm có kiểm soát) chưa được ban hành; các tiêu chuẩn, chuẩn mực chung còn thiếu; cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu mới manh nha…
Về mặt vấn đề dữ liệu, hiện Việt Nam vẫn chưa xây dựng xong cơ sở dữ liệu định danh cá nhân quốc gia, cùng với đó, dữ liệu về doanh nghiệp còn phân tán, thiếu cập nhật, thiếu nhất quán và đồng bộ.
Đặc biệt là vấn đề an toàn bảo mật, an ninh mạng, rủi ro an ninh mạng ở mức cao, tinh vi khó kiểm soát hơn, nhất là các rủi ro trong vấn đề về rửa tiền, tài trợ khủng bố, an ninh an toàn bảo mật dữ liệu, tấn công của hacker… đe dọa tính lành mạnh và ổn định của hệ thống tài chính…
Trước thực tiễn trên, theo khuyến nghị của các chuyên gia tham dự diễn đàn, fintech là mô hình kinh doanh mới do đó đòi hỏi khung pháp lý mới, theo đó trước mắt, cần xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý quản lý hoạt động fintech theo cách tiếp cận mở nhưng kiểm soát được rủi ro (cơ chế sandbox…). Đồng thời, cần ban hành các tiêu chuẩn, quy định về vấn đề chia sẻ và bảo mật dữ liệu, bảo vệ người tiêu dùng, dịch vụ tài chính xuyên biên giới, an toàn hệ thống tài chính…
Bên cạnh đó, cần tăng cường trao đổi, phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng nhằm nâng cao chất lượng quản lý, giám sát những lĩnh vực mới, hoàn thiện thể chế, bộ máy quản lý fintech (có bộ phận đầu mối, quản lý thống nhất…).
Mặt khác, cần xây dựng các quy định về liên kết, hệ sinh thái giữa ngân hàng, công ty fintech, công ty công nghệ thông tin lớn, bên thứ 3 và các chuỗi cửa hàng, trang thương mại điện tử… Đặc biệt, cần có các quy định về yêu cầu vốn, công nghệ, chuẩn mực hoạt động và quản lý rủi ro đối với các công ty muốn tham gia vào thị trường fintech…./.