Phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn
Trong hành trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, công tác giáo dục nghề nghiệp và tạo việc làm đã trở thành 'mũi nhọn' quan trọng, giúp hàng chục nghìn hộ nghèo, cận nghèo vươn lên thoát nghèo. Việc chú trọng 'trao cần câu thay vì cho cá' mang lại hiệu quả bền vững và tính tự chủ cao cho người nghèo.

Đào tạo nghề ở Thanh Hóa, góp phần giảm hộ nghèo, phát triển kinh tế.
Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã đánh dấu bước quan trọng khi đưa nội dung đào tạo nghề và giải quyết việc làm thành một dự án riêng. Đây là một thay đổi trong cách tiếp cận giảm nghèo, thay vì chỉ hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt hay hiện vật, chương trình tập trung nâng cao năng lực, kỹ năng cho người lao động nghèo, giúp họ tự tạo việc làm và có thu nhập bền vững.
Theo báo cáo của Chương trình, đã có 146 cơ sở giáo dục nghề nghiệp được đầu tư về cơ sở vật chất và trang thiết bị; 131 bộ chuẩn giáo dục nghề nghiệp cùng 1.981 chương trình, giáo trình và học liệu được xây dựng, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng đào tạo. Đồng thời, 9.461 lượt nhà giáo và cán bộ quản lý cũng được bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn. Tại nhiều địa phương, các lớp đào tạo nghề gắn với sinh kế thực tế như trồng trọt, chăn nuôi, may mặc hay chế biến nông sản... đã giúp hàng nghìn hộ nghèo tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và tự tin vươn lên.
Tại Thanh Hóa, hành trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 không chỉ dừng lại ở những chính sách hỗ trợ cơ bản, mà còn mang đến một “luồng sinh khí mới” cho đời sống người dân nông thôn thông qua việc phát triển giáo dục nghề nghiệp và tạo việc làm lâu dài. Nhiều câu chuyện đổi đời từ dạy nghề đã được ghi nhận. Anh Thao Văn Tông, người dân tộc Thái ở bản Pá Hộc (xã Nhi Sơn), từ hộ nghèo quanh năm bám nương lúa, đồi ngô, nhưng nhờ được học cách chăn nuôi bò và mạnh dạn vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội, giờ đây kinh tế gia đình ổn định, trở thành hộ khá của bản.
Theo thống kê, các xã đã mở 97 lớp với 2.557 học viên tham gia học nghề; các cơ sở đào tạo nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh thực hiện tuyển sinh cho 83.380 người; mở hơn 20 lớp đào tạo nghề trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng cho trên 700 người lao động, tập trung chủ yếu vào các ngành, nghề như: đan lát thủ công; trồng trọt, chăn nuôi; nghiệp vụ du lịch gia đình; chế biến lâm sản; kỹ thuật chế biến món ăn. Tổ chức đào tạo bồi dưỡng nhà giáo, người dạy nghề và kỹ năng mềm cho cán bộ, nhà giáo giáo dục nghề nghiệp làm công tác tư vấn hướng nghiệp cho 320 người; 11 lớp tập huấn kiến thức kỹ năng khởi nghiệp cho 660 học sinh, sinh viên; 10 hội nghị tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền chính sách pháp luật về giáo dục nghề nghiệp cho 600 người; 7 ngày hội tư vấn, hướng nghiệp cho hơn 2.100 học sinh, sinh viên.
Đào tạo nghề gắn với đặc thù thế mạnh địa phương là chìa khóa giảm nghèo bền vững và cũng là điểm sáng của Quảng Ngãi. Khi được học và thực hành đúng nghề, người dân không chỉ thành thạo kỹ năng mà còn biết kinh doanh, sáng tạo và phát triển du lịch từ chính sản vật quê hương. Tỉnh phấn đấu đến hết 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt hơn 65%, với 25,15% có bằng cấp, chứng chỉ, tập trung vào du lịch sinh thái và nông nghiệp bền vững. Tại các vùng miền núi, các lớp đào tạo nghề được mở ngay giữa đồng ruộng và vườn cây, giúp bà con thực hành trực tiếp từ chọn giống, chăm sóc, phòng bệnh đến thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm. Nhờ đó, nhiều hộ đã áp dụng hiệu quả kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.
Còn ở những vùng có lợi thế phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng, bà con được tham gia các lớp đào tạo nghề thiết thực như nấu ăn, phục vụ du khách, hướng dẫn viên hay chế tác sản phẩm lưu niệm. Đầu năm 2025, 25 hộ nghèo ở xã Phước Giang được đào tạo kỹ thuật nấu ăn trong gần 3 tháng, học cách chế biến long nhãn trà, salad bưởi và tôm nướng. Kết quả, nhiều người mở quán ăn nhỏ như chị Nguyễn Thị Hồng Phan với quán cháo, từ khi tham gia lớp học kỹ thuật nấu ăn do xã tổ chức, chị đã thay đổi cách chế biến, biết kết hợp gia vị, giữ trọn dinh dưỡng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, học được kỹ thuật nấu ăn bài bản nên món ngon hơn, khách quay lại nhiều hơn.

Mô hình vườn cây ăn trái giúp người dân xã miền núi Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi thoát nghèo.
Toàn tỉnh Nghệ An tổ chức đào tạo nghề cho 7.824/11.500 lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, vừa mới thoát nghèo sinh sống trên địa bàn tỉnh; hỗ trợ thiết bị, phương tiện đào tạo các ngành nghề trọng điểm cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; xây dựng, chỉnh sửa các bộ chương trình đào tạo các cấp, đã có 650 lượt nhà giáo, cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực; hơn 90.000 người được tư vấn hỗ trợ đào tạo nghề. Cùng với đó, việc tổ chức các đoàn hướng nghiệp phục vụ gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp cho học sinh; hội nghị tập huấn về công tác giáo dục nghề nghiệp cho cán bộ các cấp; cuộc thi tìm kiếm ý tưởng khởi nghiệp trong học sinh, sinh viên cấp trường; Ngày hội tư vấn tuyển sinh gắn với ký kết đào tạo; hỗ trợ nghiên cứu phát triển thiết bị đào tạo tự làm phục vụ đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp…cũng được đẩy mạnh triển khai.
Việc triển khai dự án góp phần phát triển giáo dục nghề nghiệp cả về quy mô và chất lượng đào tạo, hỗ trợ đào tạo nghề cho người nghèo, người dân sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, tạo điều kiện tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề cho người lao động còn gặp khó khăn do dịch chuyển người lao động ở địa phương đi làm việc tại các khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh; dự án chỉ hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người lao động có thu nhập thấp, trong khi, người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo phần lớn là người không có khả năng lao động hoặc quá độ tuổi lao động. Nhiều người lao động ở các địa bàn có đông hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng nghề trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững.
Bên cạnh đó, vẫn còn đó nhiều khó khăn, vướng mắc trong khi triển khai, như tại Thanh Hóa tỷ lệ giải ngân của tiểu dự án “Phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn” đạt thấp, chủ yếu do: Trung ương chưa quy định rõ tiêu chí xác định “người có thu nhập thấp”; Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên mặc dù đã được phân bổ vốn nhưng chưa được bổ sung là đối tượng thực hiện của Chương trình, nên chưa giải ngân được kinh phí hỗ trợ nâng cấp, sửa chữa cơ sở vật chất; mua sắm trang thiết bị. Lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo ở khu vực thành thị và các huyện đồng bằng, ven biển chủ yếu là đối tượng bảo trợ xã hội, ít có khả năng lao động, ít có nhu cầu đăng ký học nghề nên rất khó tổ chức các lớp dạy nghề; cơ sở vật chất, trang thiết bị, năng lực đội ngũ giáo viên tại các trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên ở nhiều xã chưa đáp ứng được nhu cầu.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể từ những kết quả đã được, có thể thấy tín hiệu khả quan từ công tác giáo dục nghề nghiệp và việc làm đã chứng minh vai trò "chìa khóa vàng" trong giảm nghèo bền vững. Trong giai đoạn tới, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường kết nối với doanh nghiệp và đặc biệt là thay đổi nhận thức của người dân về vai trò của đào tạo nghề.











