Mục tiêu tăng trưởng GDP 10% năm 2026: Vượt qua ràng buộc vô hình
'Chúng ta cần kiên định với kịch bản phấn đấu đạt mức tăng trưởng GDP 10% trong năm 2026. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể giữ vững quyết tâm trên con đường hướng tới mục tiêu này, đồng thời chủ động, linh hoạt trong việc tìm kiếm giải pháp khi gặp trở ngại', đây là quan điểm của ông Đặng Thanh Tùng, Giám đốc Nghiệp vụ, Dragon Capital khi trao đổi với Kinh tế Sài Gòn.
Mục tiêu tham vọng nhưng có cơ sở
KTSG: Mới đây, Quốc hội đã thông qua chỉ tiêu tăng trưởng cho nền kinh tế năm 2026 là từ 10% trở lên. Trong bối cảnh trong nước và thế giới như hiện nay, ông đánh giá như thế nào về mục tiêu này?

- Ông Đặng Thanh Tùng: Trước hết, tôi nghĩ chúng ta cần nhìn nhận rằng một mục tiêu tăng trưởng chỉ ở mức trung bình, như 6-7%, sẽ tạo ra sự ràng buộc vô hình cho nền kinh tế Việt Nam. Từ hoạch định tới thực thi chính sách, cũng như sự nỗ lực của các chủ thể trong nền kinh tế, nhiều khả năng chỉ xoay quanh mức trung bình này, thay vì hướng tới những bước tiến vượt bậc. Chỉ khi đặt ra một mục tiêu có tính tham vọng, chúng ta mới có động lực phấn đấu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bứt phá hơn.
Ngay trong năm 2025, khi mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% được đặt ra, đã có không ít hoài nghi, nhưng đến thời điểm này chúng ta đã tiến rất sát mục tiêu đó, ngay cả trong bối cảnh thương mại toàn cầu nói chung và thương mại Việt Nam nói riêng chịu áp lực đáng kể từ các biện pháp thuế đối ứng của Mỹ.
Do đó, tôi cho rằng mục tiêu tăng trưởng 10% là cần thiết để Việt Nam có động lực vươn lên một tầm cao mới, mục tiêu này là khả thi trong bối cảnh nội lực của nền kinh tế đã tương đối vững vàng. Điều này thể hiện khá rõ qua hệ thống số liệu kinh tế mới được cập nhật.
Thứ nhất, lạm phát của Việt Nam vẫn được kiểm soát ở mức ổn định, xấp xỉ 3,3% - thấp hơn khá nhiều so với mức trần lạm phát 4,5-5% mà Chính phủ đặt ra. Nhờ đó, Ngân hàng Nhà nước có dư địa tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng, giữ mặt bằng lãi suất ổn định và hỗ trợ đà tăng trưởng tín dụng bền vững ở mức khoảng 16-20%/năm một cách linh hoạt, qua đó tiếp tục kích thích cầu và đầu tư cho nền kinh tế.
Thứ hai, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng gần 12% trong chín tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm trước - một mức tăng ấn tượng nếu so với tốc độ tăng trưởng đầu tư bình quân dưới 7% giai đoạn 2020-2024. Kết quả này có được nhờ quyết tâm của Chính phủ, cùng các nghị quyết và chính sách thiết thực nhằm tháo gỡ rào cản thủ tục, cải thiện môi trường kinh doanh, giúp dòng vốn ở cả khu vực công lẫn khu vực tư nhân được khai thông.
Đặc biệt, một phần lớn vốn đầu tư đang tập trung vào hạ tầng giao thông, vận tải, năng lượng - những lĩnh vực có tác động lan tỏa mạnh tới tăng trưởng và lạm phát. Chi phí logistics của Việt Nam hiện vẫn chiếm khoảng 18% GDP, cao hơn đáng kể so với mức khoảng 8-14% ở nhiều nước trong khu vực. Vì vậy, việc đẩy nhanh đầu tư vào hạ tầng giao thông, vận tải vừa giúp mở rộng dư địa tăng trưởng, vừa góp phần kéo giảm chi phí đầu vào, qua đó hỗ trợ kiểm soát lạm phát và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ ba, tiềm năng tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân còn rất lớn, khi chúng ta đã có những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài và sẵn sàng song hành cùng Chính phủ trong các dự án tầm cỡ quốc gia. Nghị quyết 68-NQ/TW là một cú hích mạnh mẽ về mặt thể chế, củng cố niềm tin và tạo làn sóng phát triển mới cho khu vực doanh nghiệp tư nhân. Sau chín tháng đầu năm 2025, so với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới tăng 18,9%, doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 41,3%, vốn đăng ký tăng 22,6%. Đây đều là những con số rất ấn tượng, cho thấy dư địa đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân có thể vượt lên trên mức khoảng 50% GDP hiện tại, hướng tới khoảng 55-58% GDP từ năm 2026.
Bên cạnh các yếu tố nêu trên, các cấu phần khác của nền kinh tế như tiêu dùng, xuất nhập khẩu cũng đang ghi nhận mức tăng trưởng ổn định, phù hợp với quy mô của một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng GDP trên 8%. Từ đó, có thể thấy mục tiêu tăng trưởng 10% GDP vào năm 2026 là có cơ sở.
KTSG: Thuế quan, triển vọng không quá lạc quan của kinh tế thế giới dẫn đến sức mua suy yếu... đã và sẽ là những yếu tố tác động trực tiếp tới xuất khẩu của Việt Nam. Theo ông, liệu vai trò động lực chính cho tăng trưởng của trụ cột xuất khẩu có bị giảm sút? Chúng ta có thể làm gì để hóa giải viễn cảnh này?
- Không thể phủ nhận rằng việc gia tăng hàng rào thuế quan đã và đang gây tác động tiêu cực tới thương mại toàn cầu, không chỉ riêng đối với Việt Nam. Tuy nhiên, dựa trên khung thuế đối ứng mới của Mỹ, có thể thấy Việt Nam vẫn sở hữu một số lợi thế khi mức thuế bình quân áp với hàng hóa Việt Nam (khoảng 20%) thấp hơn mức thuế trung bình của thế giới (khoảng 23-24%) và thấp hơn đáng kể so với mức thuế đang áp dụng cho Trung Quốc và Ấn Độ. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn có nguồn lao động dồi dào, với chi phí hợp lý. Những lợi thế này đã được phản ánh vào các con số cụ thể: trong 10 tháng đầu năm, so với cùng kỳ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 17,4%, trong đó xuất khẩu tăng 16,2%, đồng thời vốn FDI thực hiện tại Việt Nam cũng tăng 8,8%.
Trong thời gian tới, tôi đánh giá xuất khẩu của Việt Nam vẫn có khả năng duy trì mức tăng trưởng tích cực, nhất là khi chúng ta đang sở hữu nhiều hiệp định thương mại tự do, cùng với cơ cấu xuất khẩu dần được nâng lên về chất lượng, song song với sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước và dòng vốn FDI tiếp tục được giải ngân. Bên cạnh đó, tôi cho rằng xu hướng gia tăng hàng rào thuế quan cũng sẽ trở thành một động lực thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam tái cấu trúc theo hướng đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn, tăng sức cạnh tranh và từ đó phát triển bền vững hơn trong dài hạn.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng, khác với giai đoạn 2007-2012, khi mà Việt Nam dựa vào các yếu tố ngoại lực để phát triển, như hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn FDI..., từ đây, động lực tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam sẽ đến từ nội lực. Cụ thể như tôi đã chia sẻ ở trên, chúng ta có thể thấy: (i) giải ngân vốn đầu tư, đặc biệt vào hạ tầng giao thông, vận tải, năng lượng bên cạnh việc đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế, còn tạo hiệu ứng lan tỏa tới toàn nền kinh tế; (ii) đà tăng trưởng mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân ở mức hai con số, với các doanh nghiệp đủ lớn, đủ mạnh để cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài, qua đó gia tăng đóng góp của khu vực này cho nền kinh tế và giảm dần sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Do đó, dù xuất khẩu vẫn là một cấu phần quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, tôi cho rằng vai trò của xuất khẩu sẽ dần mang tính cân bằng hơn, nhường chỗ cho nội lực của các khu vực kinh tế trong nước trở thành trụ cột chính cho chu kỳ tăng trưởng mới.
Đầu tư là trụ cột
KTSG: Hướng tới mức tăng trưởng trên 10%, theo ông, trụ cột nào đang có dư địa lớn nhất, có thể trở thành động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế? Làm thế nào để phát huy đóng góp từ động lực này tới GDP năm 2026?
- Trong bối cảnh xuất khẩu đang đối mặt với những khó khăn nhất định, còn tiêu dùng dù có cải thiện nhưng chưa tăng đủ nhanh, tôi cho rằng đầu tư sẽ là trụ cột có dư địa lớn nhất để trở thành động lực tăng trưởng chính trong năm 2026.
Số liệu 10 tháng đầu năm 2025 cho thấy đầu tư công tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt, khi giải ngân vốn đầu tư công ước đạt trên 640.000 tỉ đồng, tương đương 63,1% kế hoạch năm, tăng 27,8% so với cùng kỳ - một mức tăng trưởng rất ấn tượng. Bên cạnh đó, vốn giải ngân đầu tư khu vực tư nhân, bao gồm cả vốn FDI giải ngân, đều tăng trưởng tích cực, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn trong các lĩnh vực năng lượng, hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị - dịch vụ và hạ tầng số. Điều này cho thấy động lực đầu tư không chỉ đến từ khu vực nhà nước mà ngày càng được bổ sung mạnh mẽ bởi khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời danh mục các dự án đầu tư cũng đa dạng hơn.
Như tôi đã chia sẻ ở trên, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị khẳng định rất rõ: kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, tiên phong trong đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học - công nghệ. Điều đó cũng có nghĩa là về trung và dài hạn, đầu tư tư nhân mới là trụ cột chính của tăng trưởng. Một điểm tích cực đáng chú ý là ngày càng nhiều dự án quan trọng quốc gia, dự án hạ tầng then chốt được khu vực tư nhân chủ động đề xuất tham gia thông qua các cơ chế PPP, TOD, có thể kể đến như dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam... Thay vì chỉ trông chờ sự triển khai từ khu vực nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân lớn cho thấy sự sẵn sàng cùng góp vốn, góp ý tưởng, chia sẻ rủi ro và lợi ích tại các dự án lớn này. Cách làm này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả đầu tư, mà còn mở rộng đáng kể quy mô và tốc độ triển khai các dự án trong những năm tới - nhất là khi nhu cầu vốn cho hạ tầng giao thông, đô thị, logistics, năng lượng và hạ tầng số là rất lớn.
KTSG: Ông hình dung ra những kịch bản nào cho tăng trưởng kinh tế năm 2026? Trong các kịch bản trên, nền kinh tế cần có những thay đổi mang tính tiên quyết nào?
- Tôi cho rằng chúng ta cần kiên định với kịch bản phấn đấu đạt mức tăng trưởng GDP 10% trong năm 2026. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể giữ vững quyết tâm trên con đường hướng tới mục tiêu này, đồng thời chủ động, linh hoạt trong việc tìm kiếm giải pháp khi gặp trở ngại. Tôi lấy ví dụ, ngay đầu năm 2025 chúng ta đã đặt mục tiêu phấn đấu tăng trưởng 7-8% cho năm 2025, và để hiện thực hóa mục tiêu này, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp, hành động rất kịp thời để xử lý rủi ro từ thuế đối ứng của Mỹ - qua đó giữ cho nền kinh tế ổn định, đưa tăng trưởng chín tháng đầu năm 2025 lên gần 8% và hướng tới mức trên 8% cho cả năm 2025.
Để đạt được mức tăng trưởng GDP 10% trong năm 2026, chúng ta cần tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng một cách linh hoạt để kích thích cầu và đầu tư, trong bối cảnh lạm phát vẫn đang được kiểm soát tốt. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai các dự án có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, qua đó củng cố niềm tin của nhà đầu tư, tạo thêm động lực và cảm hứng cho doanh nghiệp trong việc đóng góp cho nền kinh tế, đồng thời tạo hiệu ứng lan tỏa để triển khai các dự án có tầm cỡ, quy mô lớn, có tiềm năng đóng góp lâu dài và bền vững cho nền kinh tế Việt Nam, như dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.













