Phát triển thị trường vốn là điều kiện tiên quyết để khu vực tư nhân bứt phá
Kỷ nguyên tăng trưởng mới mở ra với động lực quan trọng đến từ khu vực kinh tế tư nhân. Sự trỗi dậy này đặt ra nhu cầu vốn cho đầu tư, mở rộng sản xuất-kinh doanh và cơ hội cho thị trường tài chính.

nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn phát triển đầy năng động, được kỳ vọng sẽ tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong cấu trúc kinh tế và nâng cao vị thế quốc gia. (Ảnh: Vietnam+)
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của kỷ nguyên tăng trưởng mới đầy hứa hẹn, khu vực kinh tế tư nhân được kỳ vọng sẽ trở thành động lực then chốt.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa khát vọng đó, nút thắt quan trọng cần được tháo gỡ, đó là nhu cầu về nguồn vốn và vai trò (chưa phát huy hết) của thị trường vốn nội địa.
Cơ hội cho thị trường tài chính
Theo đánh giá từ giới chuyên gia, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn phát triển đầy năng động, được kỳ vọng sẽ tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong cấu trúc kinh tế và nâng cao vị thế quốc gia.
Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Phó Chủ tịch FiinRatings kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) nhấn mạnh kỷ nguyên tăng trưởng mới của nền kinh tế Việt Nam đang mở ra với động lực quan trọng đến từ khu vực kinh tế tư nhân. Sự trỗi dậy mạnh mẽ này không chỉ đặt ra nhu cầu vốn ngày càng lớn cho đầu tư, mở rộng sản xuất-kinh doanh, mà còn mở ra những cơ hội to lớn cho thị trường tài chính, từ thị trường chứng khoán đến thị trường vốn nợ, từ thị trường quốc tế đến thị trường trong nước.
Cụ thể, ông Quỳnh phân tích nhu cầu vốn của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực tư nhân đang gia tăng mạnh mẽ. Các doanh nghiệp tư nhân cần nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây chính là tiền đề tuyệt vời cho sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng với việc tạo ra đa dạng sản phẩm tài chính, từ cổ phiếu đến trái phiếu doanh nghiệp, phục vụ cả nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Dù tiềm năng là rất lớn, song ông Quỳnh cũng chỉ ra thực tế thị trường vốn Việt Nam vẫn còn một khoảng cách đáng kể so với các thị trường phát triển. Đặc biệt, thị trường trái phiếu doanh nghiệp là kênh huy động vốn dài hạn quan trọng song vẫn còn non trẻ. Quy mô toàn thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 1,25 triệu tỷ đồng, tương đương 10,8% GDP năm 2024, trong khi mục tiêu đến năm 2030 là 25%. So sánh với khu vực, tỷ lệ này thường chiếm từ 30%-40% GDP tại nhiều nước châu Á (như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia) và thậm chí trên 100% GDP tại Mỹ và Nhật Bản.
Ông Quỳnh cho rằng các thị trường đi trước đều đã hình thành cơ cấu sản phẩm đa dạng (trái phiếu công ty, trái phiếu xanh, trái phiếu chuyển đổi, chứng khoán hóa nợ...) với sự tham gia sâu rộng của các định chế tài chính dài hạn, như quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư trái phiếu và cả nhà đầu tư cá nhân thông qua các kênh phân phối minh bạch.
Khoảng cách này cho thấy để thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng và thị trường vốn nợ nói chung chưa thực sự phát huy vai trò động lực. Do đó, Việt Nam cần khẩn trương khắc phục một số điểm nghẽn hiện hữu.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam là kênh huy động vốn dài hạn quan trọng song vẫn còn non trẻ. (Ảnh: Vietnam+)
Cụ thể, ông Quỳnh liệt kê về cơ sở nhà đầu tư hạn chế, chủ yếu vẫn dựa vào ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, chất lượng và tính minh bạch của hàng hóa chưa đồng đều. Cơ chế bảo lãnh tín dụng, xếp hạng tín nhiệm và quản trị rủi ro chưa phát huy hết vai trò. Cùng với đó, hạ tầng thông tin, giao dịch, giám sát còn cần tiếp tục hoàn thiện. Từ đó, ông Quỳnh khẳng định khai thông và phát triển mạnh mẽ thị trường vốn nội địa, đặc biệt là thị trường vốn nợ là điều kiện tiên quyết. Bởi, đây là con đường giúp giảm sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng đồng thời tạo nền tảng để dòng vốn dài hạn, chi phí hợp lý và phân bổ minh bạch chảy vào khu vực tư nhân, qua đó thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Quyết tâm đột phá
Chia sẻ về bức tranh vĩ mô của nền kinh tế, ông Bùi Hoàng Hải, Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhận định năm 2025 đánh dấu một giai đoạn mới của nền kinh tế Việt Nam với nhiều thuận lợi đan xen thách thức. Về mục tiêu, Chính phủ quyết tâm duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững với chỉ tiêu GDP tăng trưởng 8% trở lên trong năm 2025 và hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030.
Ông Hải cho hay đầu tư công tiếp tục được coi là động lực then chốt. Năm 2025 là năm cuối của kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025 với mức đầu tư công dự kiến lên tới khoảng 791.000 tỷ đồng, tương đương 6,4% GDP theo phê duyệt của Quốc hội. Điều này góp phần tạo lực đẩy cho nhiều ngành công nghiệp và hạ tầng. Thêm vào đó, cầu tiêu dùng nội địa duy trì đà tăng nhờ tầng lớp trung lưu mở rộng và niềm tin tiêu dùng dần hồi phục.
Về thương mại, xuất khẩu và nhập khẩu vẫn giữ vai trò quan trọng với sự tham gia ngày càng sâu của doanh nghiệp Việt Nam vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong 7 tháng của năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 514,7 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục giữ vững vị thế xuất siêu với cán cân xuất siêu ước đạt 4 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp sức mạnh mẽ vào các lĩnh vực công nghệ cao, sản xuất xanh và chuyển đổi năng lượng. Đáng chú ý, dòng vốn gián tiếp cũng đang trở lại Việt Nam, phản ánh niềm tin của nhà đầu tư quốc tế vào triển vọng kinh tế. Theo ông Hải, môi trường tài chính, tín dụng trong nước được duy trì ổn định với lãi suất điều hành hợp lý. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho cả thị trường tín dụng ngân hàng lẫn thị trường vốn phát triển đồng bộ.
"Đây là nền tảng để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030," ông Hải khẳng định.

Trong 7 tháng của năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 514,7 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục giữ vững vị thế xuất siêu với cán cân xuất siêu ước đạt 4 tỷ USD. (Ảnh: Vietnam+)
Trên bình diện quốc tế, ông Hải chỉ ra môi trường lãi suất toàn cầu tiếp tục xu hướng hạ nhiệt sau giai đoạn thắt chặt tiền tệ kéo dài, mở ra cơ hội tích cực cho dòng vốn dịch chuyển. Tuy nhiên, ông lưu ý những tiềm ẩn biến động khó lường từ căng thẳng địa chính trị, xu hướng bảo hộ thương mại và những thách thức liên quan tới biến đổi khí hậu.
Trong bức tranh chung đó, Chính phủ đã kiên định xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Ông Bùi Hoàng Hải chỉ rõ các văn kiện quan trọng (như Nghị quyết 68 của Trung ương, Nghị quyết 198 của Quốc hội và Nghị quyết 138 của Chính phủ) đã nhấn mạnh yêu cầu phát huy vai trò khu vực tư nhân trong giai đoạn phát triển mới.
Để hiện thực hóa chủ trương này, nhiều biện pháp đã và đang được triển khai, như cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn. Chính phủ cũng khẳng định rõ nhu cầu vốn cho khu vực tư nhân là rất lớn đồng thời là cơ hội lớn cho các định chế tài chính, thị trường tín dụng và đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Với vai trò cơ quan quản lý ngành chứng khoán và tham mưu cho Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang tập trung triển khai nhiều giải pháp đồng bộ. Ông Bùi Hoàng Hải cũng chỉ ra năm trụ cột quan trọng về chủ trương phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức, nâng cao chất lượng hàng hóa, minh bạch thông tin, hạ tầng thị trường và công tác giám sát.
Trong số các định hướng lớn, ông Bùi Hoàng Hải cho biết thị trường trái phiếu doanh nghiệp được xem là một trọng tâm đặc biệt.
Giải pháp cho chu kỳ đầu tư mới
Phân tích về bức tranh tín dụng và đầu tư của khu vực tư nhân, ông Lê Hồng Khang, Giám đốc Phân tích của FiinRatings chỉ ra mặc dù cải cách hành chính và dòng vốn FDI là điểm tích cực, nhưng môi trường tín dụng vẫn còn đối mặt với thách thức. Cụ thể, điều kiện tái cấp vốn và chi phí vốn vẫn còn thắt chặt, kèm theo dư địa giảm lãi suất hạn chế. Thêm vào đó là sự suy yếu rõ rệt của tăng trưởng doanh thu doanh nghiệp so với GDP quốc gia, cùng với sự sụt giảm của tín dụng, đầu tư khu vực tư nhân và tiêu dùng bán lẻ so với đỉnh điểm trước đại dịch COVID-19.
Đặc biệt cảnh báo về chi phí vốn và đòn bẩy tài chính. Theo ông Khang, mặc dù lợi suất trái phiếu Chính phủ Việt Nam thấp so với khu vực song chi phí vay bình quân của doanh nghiệp lại cao hơn. Trên thực tế, khu vực kinh tế này đang ngày càng phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng, gây áp lực lên việc huy động vốn. Đáng lo ngại, đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp lớn đã đạt đỉnh với tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng dư nợ cao, làm gia tăng rủi ro tái cấp vốn. Về chất lượng tín dụng doanh nghiệp, dòng tiền đã có cải thiện nhưng các khoản chi đầu tư được tài trợ bằng nợ ngắn hạn đang tăng (nợ ngắn hạn tăng nhanh hơn lợi nhuận) gây áp lực về tài chính.

Khu vực kinh tế tư nhân đang ngày càng phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng, gây áp lực lên việc huy động vốn. (Ảnh: Vietnam+)
Trong bối cảnh đó, Việt Nam có nhu cầu chi tiêu vốn khổng lồ hàng năm cho bất động sản, đường bộ, đường sắt, năng lượng, cảng biển và logistics. Để khai thông nguồn vốn, ông Khang đề xuất một giải pháp đột phá. Đó là khai thác dư địa của doanh nghiệp Nhà nước trong vai trò dẫn dắt chu kỳ đầu tư mới thông qua mô hình PPP (đối tác công-tư) với nền tảng tài chính vững chắc và khung chính sách đột phá.
Ông Khang giới thiệu "Cẩm nang cho kỷ nguyên mới" với các khuyến nghị cho nhà đầu tư và tổ chức phát hành, bao gồm phân tích cấu trúc nợ, đánh giá chất lượng dòng tiền, phân tích tăng trưởng chu kỳ/cấu trúc, nâng cao năng lực quản trị và minh bạch, đa dạng hóa nguồn vốn, và tận dụng mô hình PPP.
Về vai trò của các giải pháp hỗ trợ nhằm giảm thiểu rủi ro và tăng cường niềm tin cho nhà đầu tư, bà Soleil Corpuz, chuyên viên phân tích Nghiên cứu cấp cao từ Credit Guarantee and Investment Facility (CGIF) đánh giá thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đang phục hồi nhưng vẫn còn nhỏ so với GDP và các nước ASEAN khác. Song, bà Corpuz nhấn mạnh những thay đổi chính sách tích cực của Việt Nam, đặc biệt là Nghị Quyết 68 NQ/TW sẽ khuyến khích khu vực tư nhân, cải thiện khả năng tiếp cận vốn, phát triển tín dụng xanh và khung pháp lý cho xếp hạng tín nhiệm./.