Phẫu thuật vá sọ nhân tạo cho bệnh nhân khuyết sọ
Nhiều bệnh nhân bị khuyết sọ sau chấn thương đã nhanh chóng hồi phục và trở về với nhịp sống bình thường sau khi được phẫu thuật vá sọ nhân tạo tại Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) tỉnh.
Cách đây khoảng 3 tháng, bệnh nhân H.M.T (25 tuổi), ở xã Lân Phong được người nhà đưa đến BVĐK tỉnh cấp cứu trong tình trạng nguy kịch vì máu tụ nội sọ cấp.
Ca phẫu thuật mở sọ được các bác sĩ Khoa Ngoại thần kinh (BVĐK tỉnh) thực hiện nhanh chóng, để loại bỏ khối máu tụ, khắc phục tình trạng chảy máu, giảm áp lực nội sọ, tránh gây chèn ép não. Đây là phương pháp tối ưu giúp bệnh nhân thoát khỏi tình trạng nguy kịch do chấn thương sọ não.

Bác sĩ Khoa Ngoại thần kinh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh thăm khám cho bệnh nhân H.M.T sau ca phẫu thuật vá sọ. Ảnh: ĐVCC
Sau phẫu thuật, bệnh nhân dần trở lại nhịp sinh hoạt bình thường. Song, do trải qua phẫu thuật mở sọ nên bệnh nhân bị khuyết một phần sọ bên trái. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn khiến não bộ thiếu lớp bảo vệ, nguy cơ rối loạn tuần hoàn não hoặc chấn thương thứ phát cao. Vì vậy, bệnh nhân tiếp tục được bác sĩ chỉ định phẫu thuật vá sọ nhân tạo, nhằm phục hồi cấu trúc hộp sọ và bảo vệ não bộ.
Tại bệnh viện, đội ngũ y, bác sĩ với sự chủ trì của thạc sĩ, bác sĩ Đào Đặng Bảo Ngọc - Phó Trưởng khoa, phụ trách Khoa Ngoại thần kinh tiến hành phẫu thuật cho bệnh nhân T. Kíp mổ đã dùng mảnh vá làm từ Titanium để ghép vào xương sọ của người bệnh thay thế phần sọ bị khuyết.
Đây là kỹ thuật chuyên sâu được bệnh viện triển khai từ năm 2020 trong phẫu thuật vá sọ và là một bước rất quan trọng trong quá trình điều trị, phục hồi cho bệnh nhân sau các tổn thương não nặng. Sau phẫu thuật, sức khỏe bệnh nhân T phục hồi tốt, hộp sọ bệnh nhân lấy lại được hình dáng cân đối, các chức năng thần kinh ổn định.
“Trước đây, để phẫu thuật vá khuyết sọ cho bệnh nhân, chúng tôi thường áp dụng kỹ thuật vá sọ tự thân. Nghĩa là dùng chính mảnh xương sọ của bệnh nhân (mảnh sọ lấy ra sau khi mổ mở sọ, được bảo quản ở -80°C hoặc trong bụng bệnh nhân) để ghép lại vào hộp sọ sau khoảng 2 - 6 tháng mổ mở sọ).
Tuy nhiên, vá sọ tự thân bộc lộ nhiều nhược điểm: Nguy cơ tiêu xương tự thân sau 6 - 12 tháng, đặc biệt ở bệnh nhân trẻ; nguy cơ nhiễm trùng khi bảo quản hoặc tái cấy; mảnh xương có thể biến dạng hoặc không còn khít khi giải phẫu. Trong khi đó, vá sọ nhân tạo có ưu điểm là từ dữ liệu CT sọ não, miếng vá được tạo hình phù hợp tuyệt đối với vùng khuyết sọ của người bệnh.
Hơn nữa, vật liệu nhân tạo cũng mang tính bền vững, ổn định lâu dài và tương thích với người bệnh, giảm thiểu nguy cơ thải ghép so với vá sọ tự thân. Vì vậy, kỹ thuật vá sọ nhân tạo ngày càng được áp dụng phổ biến và là xu hướng chung của y học trong nước và quốc tế”, bác sĩ Đào Đặng Bảo Ngọc phân tích.
Được triển khai thường quy tại BVĐK tỉnh từ năm 2020, kỹ thuật vá sọ nhân tạo đã giúp hàng trăm bệnh nhân bị khuyết sọ sau phẫu thuật chấn thương sọ não nặng, xuất huyết não, hoặc sau phẫu thuật lấy u não có cơ hội trở lại cuộc sống bình thường, khỏe mạnh.











