Phó trưởng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng Nguyễn Hữu Thông kiến nghị cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ chế định 'thừa hành viên'
Tại phiên thảo luận toàn thể tại hội trường trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV về Dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) và Dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi), Phó trưởng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng Nguyễn Hữu Thông tham gia thảo luận về Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi).

Phó trưởng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng Nguyễn Hữu Thông tham gia thảo luận tại Hội trường về Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi)
Qua nghiên cứu dự thảo Luật và các tài liệu liên quan, đại biểu bày tỏ sự thống nhất với nhiều nội dung tại Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp về sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
So với Luật hiện hành, dự thảo lần này có phạm vi điều chỉnh mở rộng, bao quát cả việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, trọng tài thương mại, cơ quan cạnh tranh quốc gia và các quyết định xử lý hành chính có liên quan đến tài sản. Cách tiếp cận này phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khi các phán quyết dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng và mang yếu tố quốc tế.
Theo đại biểu Nguyễn Hữu Thông, Dự thảo lần này thiết kế lại hệ thống thi hành án dân sự theo hướng phân định rõ giữa cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tổ chức thi hành án; đồng thời, bổ sung mô hình văn phòng thi hành án dân sự và chế định “Thừa hành viên”, một chủ thể mới được phép tổ chức thi hành án theo hợp đồng, tương tự mô hình thừa phát lại ở nhiều nước. Đây là hướng đi mới, thể hiện xu hướng xã hội hóa hoạt động thi hành án nhằm giảm tải cho cơ quan nhà nước, tạo thêm lựa chọn cho người dân.
Tuy nhiên, như Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đã chỉ rõ trong Báo cáo thẩm tra, cần làm rõ phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm của “Văn phòng thi hành án dân sự” và mối quan hệ với cơ quan thi hành án nhà nước. Nếu không quy định chặt chẽ, có thể dẫn đến rủi ro lạm quyền, xung đột lợi ích, thậm chí biến tướng thành “dịch vụ thi hành án có điều kiện”.
Vì vậy, đại biểu đề nghị chỉ nên thí điểm ở phạm vi hẹp, với cơ chế kiểm soát chặt chẽ của Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát; đồng thời, quy định rõ tiêu chuẩn đạo đức, nghề nghiệp, trách nhiệm bồi thường của Thừa hành viên khi gây thiệt hại cho đương sự.

Quang cảnh kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV
Về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án và người phải thi hành án, Dự thảo lần này cho phép cả người được thi hành án và người phải thi hành án đều có quyền lựa chọn cơ quan thi hành án dân sự hoặc văn phòng thi hành án dân sự để tổ chức thi hành án. Đây là một điểm mới tiến bộ, nhằm tăng tính chủ động, linh hoạt và bảo đảm quyền lựa chọn dịch vụ công của công dân.
Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, việc quy định quyền lựa chọn cơ quan hoặc văn phòng thi hành án trong Dự thảo tiềm ẩn mâu thuẫn về thẩm quyền. Khi cả người được và người phải thi hành án đều có quyền lựa chọn, thì cùng một bản án có thể do hai chủ thể khác nhau tổ chức thi hành.
Thực tế này dễ phát sinh tình trạng “chạy chọn nơi có lợi”, hoặc cạnh tranh không lành mạnh giữa các cơ quan, văn phòng thi hành án, làm méo mó quá trình thi hành án, gây xung đột, trùng lặp, hoặc kéo dài vụ việc vì tranh chấp thẩm quyền. Cơ chế này vô hình trung làm rối hệ thống, làm giảm hiệu lực pháp lý của bản án và gây khó cho việc kiểm sát của Viện Kiểm sát Nhân dân.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông cho rằng, cần quy định nguyên tắc: một bản án, tại một thời điểm, chỉ được thi hành bởi một chủ thể duy nhất; đồng thời, cần quy định rõ giới hạn phạm vi lựa chọn, chẳng hạn chỉ được lựa chọn theo địa bàn nơi cư trú, nơi có tài sản hoặc nơi ban hành bản án, đồng thời xây dựng cơ chế công khai, đăng ký trực tuyến và giám sát tập trung nhằm bảo đảm minh bạch, tránh tiêu cực và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án dân sự và trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định, đại biểu thấy rằng, một trong những điểm nghẽn lớn hiện nay là vẫn còn một số bản án, quyết định tuyên chưa rõ, khó thi hành, việc gửi bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án còn chậm.
Dự thảo thảo lần này đã có bước tiến quan trọng khi cơ quan ra bản án, quyết định phải sửa chữa, bổ sung, đính chính, giải thích bản án, quyết định trong thời hạn 20 ngày, vụ việc phức tạp không quá 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu; đồng thời, cũng quy định trách nhiệm của Tòa án và cơ quan ra bản án trong việc trả lời, phối hợp thi hành án, giải quyết hậu quả thi hành án khi bản án bị xem xét lại.
Đại biểu hoàn toàn tán thành tinh thần của các quy định này, nhưng đề nghị Ban soạn thảo cụ thể hóa hơn chế tài xử lý trách nhiệm, làm rõ hình thức kỷ luật hoặc xử lý hành chính đối với trường hợp chậm trả lời hoặc không trả lời yêu cầu, kiến nghị của cơ quan thi hành án; đồng thời, gắn trách nhiệm của người đứng đầu và bổ sung vai trò giám sát của Viện kiểm sát nhân dân, nhằm nâng cao tính ràng buộc, bảo đảm tính liên thông giữa các cơ quan tư pháp và hiệu quả thực thi bản án trên thực tế.












