Quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đất nước là quan điểm phát triển xuyên suốt của Đảng. Quan điểm này được thể hiện qua chủ trương, chính sách phát triển phù hợp với yêu cầu, điều kiện phát triển của đất nước qua từng thời kỳ.
HOÀN THIỆN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GẮN VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Trong công cuộc đổi mới, cùng với tiến trình mở cửa, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngay từ sớm, Việt Nam đã chú trọng bảo vệ môi trường, xác định là vấn đề có ý nghĩa quan trọng của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chủ trương của Đảng là tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, qua đó từng bước xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển nhanh và bền vững đất nước. Quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường được hình thành và phát triển, phù hợp với từng giai đoạn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, được thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định, tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau. Đến Đại hội VII,Đảng xác định rõ phát triển các ngành kinh tế và bảo vệ môi trường với các giải pháp cụ thể: Nhà nước quy định cụ thể quyền sở hữu, quyền và trách nhiệm sử dụng tài nguyên để chấm dứt tình trạng tài nguyên vô chủ; ban hành Luật Bảo vệ môi trường; giáo dục và tuyên truyền sâu rộng việc bảo vệ tài nguyên và môi trường cho mọi đối tượng; xây dựng tổ chức có chức năng chuyên trách bảo vệ tài nguyên và môi trường từ Trung ương đến địa phương, kết hợp với phong trào quần chúng trong lĩnh vực này; sớm tham gia và phối hợp hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực trong việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và cảnh quan.
Sau những thành tựu về kinh tế của những năm đầu đổi mới, Đảng sớm nhận ra những thách thức về môi trường. Ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36/1998/CT-TW về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đây là lần đầu tiên Đảng ban hành chỉ thị về bảo vệ môi trường, xác định, bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắcvà đề ra 4 quan điểm cơ bản: 1) Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; 2) Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; 3) Coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm môi trường là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; 4) Kết hợp phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Tại Đại hội IX, Đảng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm bảo vệ môi trường gắn với phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đại hội xác định, “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”(1) và nhấn mạnh không chỉ bảo vệ môi trường, mà còn cải thiện môi trường, gắn chặt chính sách môi trường với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, coi việc cải thiện môi trường là một tiêu chí để đánh giá sự phát triển.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2001 - 2010 khẳng định quan điểm phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá các giải pháp phát triển.
Sau 6 năm ban hành và thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW và trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội IX, vấn đề môi trường được cải thiện và mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường được hạn chế. Tuy nhiên, môi trường ở Việt Nam thời điểm này vẫn bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc đã đến mức báo động. Trước thực trạng đó, Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị, về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã được ban hành. Nghị quyết số 41-NQ/TW nêu 5 quan điểm: 1) Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta; 2) Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững; 3) Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với tự nhiên của cha ông ta; 4) Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống; 5) Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Tại Đại hội X, lần đầu tiên trong báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010 đã đưa ra chỉ tiêu cụ thể về môi trường (độ che phủ rừng; tỷ lệ dân cư được dùng nước sạch; chỉ tiêu về xử lý chất thải) và tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên được xác định là một trong sáu nhiệm vụ thuộc định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng.
Đến Đại hội XI, Đảng tiếp tục nhấn mạnh vấn đề bảo vệ môi trường và khẳng định, bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho sự phát triển bền vững; tăng cường bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. Điều đó cho thấy, công tác bảo vệ môi trường được Đảng ngày càng đặc biệt quan tâm. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)nhấn mạnh vấn đề bảo vệ môi trường, nhận định, nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả quốc gia, dân tộc,Cương lĩnh xác định phương hướng cơ bản phát triển đất nước là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường và định hướng quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên quốc gia.
Dây chuyền sản xuất các sản phẩm cảm biến thông minh, thân thiện với môi trường của Công ty TNHH Hyundai Kefico Việt Nam, vốn đầu tư của Hàn Quốc tại Khu công nghiệp Đại An II, tỉnh Hải Dương. (Ảnh: TTXVN)
Cụ thể hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu rõ quan điểm, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến lược đặt ra yêu cầu nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án. Các dự án đầu tư xây dựng mới phải bảo đảm yêu cầu về môi trường. Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để xử lý hành vi vi phạm. Khắc phục suy thoái, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường. Thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng; tăng diện tích khu bảo tồn thiên nhiên. Quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu và đánh giá tác động để chủ động triển khai thực hiện hiệu quả giải pháp phòng, chống thiên tai và Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng. Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.
Thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước những thập niên đầu của thế kỷ XXI cho thấy, vấn đề bảo vệ môi trường hết sức phức tạp, gắn với biến đổi khí hậu, quản lý, khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013 về "Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”. Trên cơ sở đánh giá thực trạng môi trường và công tác bảo vệ môi trường giai đoạn trước đó, Nghị quyết số 24-NQ/TW xác định rõ quan điểm, mục tiêu tổng quát, trong đó thể hiện quan điểm chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; môi trường là vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
Nghị quyết số 24-NQ/TW đã nêu các mục tiêu cụ thể và 3 nhóm nhiệm vụ bảo vệ môi trường: 1) Phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường; 2) Khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân, hạn chế tác động do ô nhiễm môi trường đến sức khỏe của nhân dân; 3) Bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Cùng với đó là 5 nhóm giải pháp: 1) Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường; 2) Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; 3) Tăng cường quản lý nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; 4) Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; 5) Coi trọng hợp tác, hội nhập quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội XII, Đảng đã khẳng định những thành tựu sau 30 năm tiến hành đổi mới đất nước và thẳng thắn chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, trong đó có hạn chế phát triển thiếu bền vững cả về văn hóa, xã hội và môi trường. Trên cơ sở đó, Đại hội XII đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đều được gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ môi trường, gắn kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh; tập trung làm tốt công tác nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, trật tự và bảo vệ môi trường; phát triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa dầu, hóa chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh; khai thác hiệu quả, bền vững các di sản văn hóa, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và giữ gìn vệ sinh môi trường; đẩy nhanh điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển, đảo; rà soát, sửa đổi chính sách, pháp luật để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ cao, thân thiện môi trường; từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, xanh, thân thiện với môi trường, nhất là các đô thị lớn; tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và thực hiện đồng bộ giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân. Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường. Kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm. Khắc phục hiệu quả ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại. Quy hoạch và xây dựng các công trình xử lý rác thải tập trung theo vùng, cụm xã. Hạn chế, tiến tới ngăn chặn căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề…
Kế thừa các quan điểm trước đó, Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ bảo vệ môi trường là nội dung quan trọng trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững trong thời gian tới. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định quan điểm phát triển kinh tế luôn gắn kết với bảo vệ môi trường trong từng bước và từng chính sách phát triển. Văn kiện Đại hội XIII cũng đề cập đến bảo vệ môi trường ở một số lĩnh vực, nội dung cụ thể, như bảo vệ môi trường ở nông thôn; khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường…
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Một số kinh nghiệm
Một số kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường của Đảng:
Một là, cùng với phát triển kinh tế - xã hội, cần đề cao, coi trọng nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ chiến lược không tách rời với mục tiêu phát triển bền vững, là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an ninh và quốc phòng của đất nước. Đặt yêu cầu bảo vệ môi trường ở vị trí quan trọng trong quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xác định bảo vệ môi trường là nền tảng, là điều kiện tiên quyết cho phát triển nhanh, bền vững đất nước và phát triển kinh tế phải quan tâm đầu tư cho nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Hai là, kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá; thực hiện quan điểm, chính sách sàng lọc và lựa chọn dự án đầu tư phát triển dựa trên các tiêu chí bảo vệ môi trường.
Ba là, phát triển kinh tế - xã hội phải tôn trọng các quy luật tự nhiên, hài hòa với thiên nhiên, thân thiện môi trường; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, lịch sử.
Bốn là,bảo vệ môi trường phải lấy phòng ngừa và phòng tránh là chính, từng bước ngăn chặn sự gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo đảm an ninh sinh thái; giải quyết cơ bản các vấn đề môi trường trọng điểm cấp bách, từng bước cải thiện chất lượng môi trường sống; tăng cường hoạt động bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái quan trọng; khắc phục xu hướng suy giảm đa dạng sinh học và cảnh quan thiên nhiên.
Năm là, bảo vệ môi trường cần triển khai đồng bộ giải pháp về hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, công cụ kinh tế; đồng thời, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của Nhà nước, cộng đồng, các tổ chức và cá nhân trong nước và quốc tế. Lấy khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá trong công tác bảo vệ môi trường. Tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng xanh, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn.
Sáu là, bảo vệ môi trường quốc gia gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái khu vực và toàn cầu; hợp tác với cộng đồng quốc tế giải quyết hiệu quả các vấn đề môi trường xuyên biên giới; bảo vệ môi trường bảo đảm không làm phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia.
Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị trong việc tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường (Trong ảnh: Đoàn viên, thanh niên hướng dẫn học sinh phân loại rác thải). (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
Một số giải pháp chủ yếu
Thứ nhất, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn xã hội về bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác giáo dục môi trường và nâng cao nhận thức về vai trò của bảo vệ môi trường. Nâng cao nhận thức của các cấp, ngành về vai trò của môi trường trong phát triển. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế ít chất thải, các-bon thấp,… theo hướng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền phù hợp từng đối tượng, từng vùng, từng địa phương. Tuyên truyền, tạo ý thức của cộng đồng trong sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, năng lượng... Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đào tạo, truyền thông về môi trường; cung cấp thông tin kịp thời về bảo vệ môi trường trên các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng. Thực hiện chương trình truyền thông mạnh mẽ để tạo thành phong trào bảo vệ môi trường, nhất là trong phân loại rác thải tại nguồn, hạn chế sử dụng nhựa, túi nilon khó phân hủy, sử dụng một lần. Đẩy mạnh công tác xây dựng chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề, phóng sự về môi trường. Phát hiện, nêu gương, tạo được phong trào, nhân rộng các điển hình, khu vực, mô hình, cách làm hay, tốt về bảo vệ môi trường; thúc đẩy các nhân tố tích cực, điểm sáng, khu vực, địa bàn, lĩnh vực điển hình về bảo vệ môi trường.
Thứ hai, trên cơ sở thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp với đẩy mạnh cải cách hành chính và nâng cao năng lực quản trị môi trường. Việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường theo hướng: 1) Đẩy mạnh áp dụng cơ chế, chính sách mới mang tính đột phá, tạo nền tảng pháp lý cho việc hình thành và phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít chất thải, kinh tế ít các-bon; 2) Khắc phục các chồng chéo, xung đột, bổ sung các quy định mới, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ và đầy đủ của hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; 3) Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị trong việc tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường, từ hoạch định chính sách đến tổ chức, giám sát thực hiện; 4) Thể chế hóa các cam kết quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã tham gia; 5) Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong bảo vệ môi trường.
Thứ ba, tăng cường năng lực quản lý nhà nước và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương. Tiếp tục chú trọng kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường đầu tư cho phát triển đội ngũ cán bộ các cấp có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để thực thi công vụ trong công tác bảo vệ môi trường. Tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường thông qua nâng cao tính nghiêm khắc của các biện pháp xử lý vi phạm; áp dụng hiệu quả các công cụ kinh tế; tăng cường cung cấp, công khai, minh bạch thông tin môi trường; và thúc đẩy vai trò giám sát của cộng đồng trong bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giám sát thực thi chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường trong các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là đối với doanh nghiệp. Tăng cường chia sẻ thông tin, minh bạch trong bảo vệ môi trường, đặc biệt là thông tin về quy hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, trong khai thác khoáng sản, kiểm soát ô nhiễm môi trường... Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp và cộng đồng trong việc phản biện chính sách; giám sát, phát hiện vi phạm pháp luật về môi trường; xây dựng và nhân rộng các mô hình bảo vệ môi trường.
Thứ tư, huy động và ưu tiên nguồn đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Huy động mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước, trong đó chú trọng phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, khai thác hiệu quả nguồn lực của khu vực tư nhân cho bảo vệ môi trường. Tăng dần ngân sách cho bảo vệ môi trường phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng cường sử dụng hiệu quả nguồn lực trong bảo vệ môi trường. Xây dựng cơ chế đột phá nhằm huy động nguồn đầu tư từ xã hội cũng như từ Nhà nước cho công tác bảo vệ môi trường. Hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp môi trường, xử lý ô nhiễm, quản lý chất thải, cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường. Đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác bảo vệ môi trường. Ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước, hỗ trợ cho việc phát triển công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo vệ môi trường. Chủ động và tận dụng các cơ hội của quá trình hội nhập, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho các dự án bảo vệ môi trường. Ưu tiên các nguồn vốn ODA không hoàn lại trong việc nâng cao năng lực, chuyển giao khoa học - công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Ưu tiên và đầu tư mạnh mẽ cho công tác nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến ứng dụng vào quản lý và bảo vệ môi trường hiệu quả. Áp dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến và hiện đại trong xử lý rác thải ở Việt Nam trong những năm tới. Ứng dụng công nghệ thông tin, internet kết nối vạn vật và trí tuệ nhân tạo vào phát triển cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường quốc gia thống nhất và đồng bộ. Nhà nước khuyến khích áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến nâng cao năng lực quản lý môi trường, dự báo và cảnh báo sớm ô nhiễm môi trường cấp tỉnh, vùng và liên vùng. Quan tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ hiện đại của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào việc dự báo khí hậu, giám sát môi trường. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào việc chế biến, xử lý rác thải, nước thải. Sớm bổ sung cơ chế, chính sách, tạo môi trường cho doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư chế biến, xử lý rác thải, nước thải. Khuyến khích ứng dụng công nghệ giảm tiêu thụ năng lượng, nước sạch và sử dụng lại chất thải trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khuyến khích và hỗ trợ phát triển loại hình, mô hình sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường./.
GS. TS. NGUYỄN QUANG THUẤN
Hội đồng Lý luận Trung ương
___________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.162.
(Nguồn: TC Cộng sản)