Quân đội lớn mạnh ra sao sau 3 năm đầu thành lập

Theo các tài liệu lưu trữ, từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1948, để bảo vệ thành quả cách mạng, Chính phủ đã ra một loạt quyết sách quan trọng để xây dựng Quân đội ngày càng lớn mạnh.

 Lễ thành lập Đại đoàn 308, Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 28/8/1949. Ảnh: QĐND.

Lễ thành lập Đại đoàn 308, Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 28/8/1949. Ảnh: QĐND.

Để có được độc lập, ngay từ những ngày tiền khởi nghĩa, với tầm nhìn xa trông rộng của một nhà hoạch định chiến lược tài ba, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Để rồi sau đó, từ quân số ban đầu 34 chiến sĩ, xuất thân từ nhà giáo, nông dân… Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân nhanh chóng trưởng thành, là đội quân chủ lực - lực lượng nòng cốt của đấu tranh vũ trang cách mạng.

Cách mạng Tháng Tám thành công, sự ra đời và tồn tại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gắn liền với sự hình thành và phát triển của Quân đội Việt Nam. Theo các tài liệu lưu trữ của Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, trong khoảng thời gian từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1948, để bảo vệ thành quả cách mạng, Chính phủ ta đã ra một loạt các quyết sách quan trọng để xây dựng và phát triển đội quân nòng cốt đủ sức bảo vệ thành quả của cách mạng.

Chính quy hóa Quân đội quốc gia

Đầu tiên phải kể đến việc đổi tên Đoàn Việt Nam giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn (Vệ quốc quân) diễn ra vào tháng 11/1945 cho phù hợp với tình hình mới. Vào thời điểm này, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã lâm vào tình thế hiểm nghèo, thù trong, giặc ngoài. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiến hành sách lược mềm dẻo “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để giữ vững nền độc lập non trẻ.

Tiếp đó, là việc chính quy hóa quân đội quốc gia. Ngày 23/6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33/QP ấn định các cấp bậc, quân phục, phù hiệu cho Lục quân toàn quốc.

Về mặt tổ chức, Điều 2 Sắc lệnh quy định: Hàng Đội có: tiểu đội, trung đội, đại đội; Hàng Đoàn có: tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, liên đoàn, tập đoàn.

Điều 3 Sắc lệnh quy định 5 cấp bậc trong lục quân gồm: bậc Binh, bậc Sĩ, bậc Úy, bậc Tá và bậc Tướng. Ngoài bậc Binh có 2 cấp (binh nhất, binh nhì), 4 bậc còn lại đều 3 cấp: Sĩ (hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ), người sắp lên Úy gọi là Chuẩn Úy; Úy (thiếu úy, trung úy, đại úy); Tá (thiếu tá, trung tá, đại tá); Tướng (thiếu tướng, trung tướng, đại tướng).

Về phong cấp bậc, Điều 4 sắc lệnh quy định: bậc binh sẽ do quyết nghị của Trung đoàn trưởng; bậc úy sẽ do nghị định của Tổng tư lệnh; bậc tá sẽ do nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; và bậc tướng sẽ do sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ.

Về quân phục, Điều 6 Sắc lệnh quy định: “Quân phục thì tất cả các cấp bậc như nhau, chỉ có phù hiệu (đeo ở mũ) và cấp hiệu (đeo ở vai hoặc ở cánh tay áo) là khác nhau.

Điều 7 Sắc lệnh quy định chi tiết quân phục và các điều 8, 9, 10, 11 quy định rất cụ thể hình dáng, kích thước, màu sắc, nơi đeo các phù hiệu, cấp hiệu, dấu hiệu…

Như vậy, với việc ban hành Sắc lệnh 33/QP trong bối cảnh điều kiện kinh tế nước nhà còn gặp rất nhiều khó khăn, vải vóc còn thiếu thốn, nhưng việc cố gắng ấn định các cấp bậc, quân phục, phù hiệu cho Lục quân toàn quốc đã cho thấy quyết tâm rất lớn của Chính phủ trong việc từng xây dựng một đội quân chính quy của một quốc gia độc lập, sẵn sàng bước vào cuộc trường chinh bảo vệ chính quyền công nông và độc lập dân tộc mới giành được.

Định rõ quy tắc tổ chức của Quân đội Quốc gia

Tiếp theo việc ấn định các cấp bậc, quân phục, phù hiệu cho Lục quân, ngày 22/5/1946, Chủ tịch Chính phủ còn ban hành Sắc lệnh 71/SL định rõ quy tắc tổ chức của Quân đội Quốc gia.

 Trang 1 Sắc lệnh số 71/SL ngày 22/5/1946. Nguồn: TTLTQGIII.

Trang 1 Sắc lệnh số 71/SL ngày 22/5/1946. Nguồn: TTLTQGIII.

Điều 1 Sắc lệnh khẳng định “Quân đội của nước Việt Nam là một Quân đội Quốc gia”. Điều 2 quy định ngành Lục quân chỉnh đốn theo bản qui tắc định ban hành kèm theo Sắc lệnh.

Theo đó, bản Qui tắc này gồm 62 điều được bố cục thành 2 tiết. Tiết thứ nhất - Tổ chức gồm 3 chương: Chương thứ nhất - Biên chế (từ Điều 1 đến Điều 18); Chương thứ 2 - Tuyển binh (từ Điều 19 đến Điều 23); Chương thứ 3 - Cấp bậc, thăng giáng và thuyên chuyển (từ Điều 24 đến Điều 33). Tiết thứ hai - Quân phong - Quân kỳ gồm 2 chương: Chương thứ nhất - Kỷ luật (từ Điều 34 đến Điều 41); Chương thứ 2 - Thưởng phạt (từ Điều 42 đến Điều 55); Chương thứ 3 - Nghi lễ Quân đội (từ Điều 56 đến Điều 62).

Theo Sắc lệnh, ngành Lục quân được quy định biên chế với nguyên tắc: “căn cứ vào nhiều điều kiện, cách điều động các đơn vị, số võ khí và cách điều khiển các võ khí, những dụng cụ và cách giao thông vận tải ở mỗi địa phương…”.

Biên chế quân đội sẽ dần dần tùy theo những điều kiện kể trên mà tổ chức theo những đơn vị sau đây: Tiểu đội 12 người, Trung đội có 3 tiểu đội với 42 người; đại đội có 178 người gồm 3 trung đội chiến đấu và một đại bộ đội với 52 người, trong đại đội bộ đội có 3 ban là Ban chỉ huy, Ban Quản trị, Ban Quân y.

Cấp tiểu đoàn: 676 người cộng với các đơn vị trợ chiến; cấp trung đoàn 2.289 người cộng với các đơn vị trợ chiến; cấp đại đoàn 7.115 người cộng với các đơn vị trợ chiến.

Cấp Sư đoàn, liên đoàn, tập đoàn: Tùy theo địa thế và kế hoạch binh bị, mỗi sư đoàn gồm có hai hoặc ba đại đoàn và các lực lượng khác như pháo binh, chiến xa, không quân... Mỗi liên đoàn gồm có hai hoặc ba sư đoàn và mỗi tập đoàn gồm có hai hoặc ba liên đoàn.

Việc trang bị vũ khí cho từng đơn vị cũng được quy định rất cụ thể. Sắc lệnh còn quy định rõ chế độ tuyển quân và lần đầu tiên quy định cấp chính trị viên, nhân viên quân y, quân nhân thuộc các ngành chuyên môn như liên lạc, vô tuyến, xưởng súng đạn, âm nhạc…

Sắc lệnh cũng quy định hai tiêu chuẩn cơ bản để thăng cấp là năng lực và thời hạn. Về kỷ luật Quân đội, sắc lệnh định ra nguyên tắc: “Kỷ luật là sức mạnh cốt yếu của quân đội. Mục đích là giữ vững tình đoàn kết không những giữa các quân nhân, mà lại giữa quân đội và nhân dân, cốt để nâng cao tinh thần chiến đấu của đoàn thể dân tộc Việt Nam.

Kỷ luật của quân đội phải là kỷ luật thép, nghĩa là các điều lệ có tính cách rất nghiêm khắc, cương quyết bắt buộc: Những kỷ luật ấy phải là kỷ luật tự giác, nghĩa là mọi người đều phải hiểu rõ, phải nhận thức sự cần thiết của những điều lệ kỷ luật rồi tự mình bắt buộc mình thi hành một cách triệt để”...

Không chỉ chú trọng xây dựng lực lượng Lục quân, Chính phủ còn quan tâm xây dựng đội quân chính quy với nhiều quân, binh chủng khác nhau và có thể tác chiến trên nhiều địa hình. Cụ thể, ngày 19/7/1946, Chính phủ đã ký Sắc lệnh số 125/SL “Thành lập trong Quân đội quốc gia một ngành Hải quân Việt Nam” và định rõ “Ngành Hải quân Việt Nam đặt dưới quyền Bộ Quốc phòng về phương diện quản trị; Quân sự ủy viên Hội về phương diện điều khiển”...

Chọn người đứng vào hàng ngũ tướng lĩnh

Không chỉ quan tâm phát triển lực lượng chính quy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến việc chọn người đứng vào hàng ngũ tướng lĩnh của Quân đội.

 Sắc lệnh số 110/SL ngày 20/1/1948, phong cấp hàm đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp. Nguồn: TTLTQGIII.

Sắc lệnh số 110/SL ngày 20/1/1948, phong cấp hàm đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp. Nguồn: TTLTQGIII.

Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh chính thức phong quân hàm tướng đợt đầu tiên cho 10 quân nhân.

Sắc lệnh số 110/SL ngày 20/1/1948, phong cấp hàm đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ.

Sắc lệnh số 115/SL ngày 25/1/1948, phong cấp hàm trung tướng cho ông Nguyễn Bình - Khu trưởng Chiến khu 7 kiêm Ủy viên Quân sự Nam bộ.

Sắc lệnh 111/SL ngày 20/1/1948 phong cấp hàm thiếu tướng từ ngày 1/1/1948 cho các ông: Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu trưởng Quân đội quốc gia; Nguyễn Sơn - Khu trưởng Chiến khu 4; Chu Văn Tấn - Khu trưởng Chiến khu 1; ông Hoàng Sâm - Khu trưởng Chiến khu 2.

Sắc lệnh 112/SL ngày 20/1/1948 phong cấp hàm thiếu tướng từ ngày 1.1.1948 cho các ông: Trần Tử Bình - Trưởng phòng Kiểm tra cán bộ; Văn Tiến Dũng - Cục trưởng Cục Chính trị; Lê Hiến Mai - Chính trị ủy viên Chiến khu 2.

Sắc lệnh số 117/SL ngày 25/1/1948 phong ông Trần Đại Nghĩa - Cục trưởng Quân giới cấp hàm thiếu tướng.

Khi sự kiện này được công bố trên Đài tiếng nói Việt Nam, một phóng viên phương Tây hỏi Bác vì sao một lúc phong nhiều tướng như vậy; Việc phong cấp này được tiến hành dựa theo những tiêu chuẩn nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời giản dị: Đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng; thắng trung tướng phong trung tướng; thắng đại tướng phong đại tướng.

Như vậy, có thể thấy phép so sánh như Bác nói cho thấy, nguyên tắc phong hàm sĩ quan cấp cao của Quân đội trong thời kỳ này dựa vào tài năng cầm quân của tướng sĩ hai bên đối kháng. Nhưng ẩn bên trong sự so sánh ấy, chắc hẳn là sự tin tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những người được Bác thay mặt Chính phủ ký Sắc lệnh phong hàm; đồng thời là niềm tự hào của Bác về những chiến sĩ của mình đã và đang trưởng thành trong cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Và lịch sử đã chứng minh, những vị tướng đầu tiên do Bác chọn này đã trở thành rường cột của Quân đội Quốc gia, xứng đáng được các thế hệ sau tôn trọng.

Tóm lại, chỉ trong một thời gian rất ngắn, với sự biến chuyển rất nhanh của thời cuộc, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mau chóng trưởng thành, lớn mạnh, trở thành Quân đội quốc gia - lực lượng chính quy nòng cốt của đấu tranh vũ trang cách mạng, sẵn sàng bước vào cuộc trường chinh, bảo về nền độc lập của Tổ quốc.

Minh Châu

Nguồn Znews: https://znews.vn/quan-doi-lon-manh-ra-sao-sau-3-nam-dau-thanh-lap-post1518787.html