Quan hệ Mỹ-EU thời Tổng thống Joe Biden: Mối lương duyên không dễ chối bỏ
Tổng thống Mỹ Joe Biden đã chọn châu Âu là điểm đến cho chuyến công du nước ngoài đầu tiên kể từ khi nhậm chức, một mặt là để hàn gắn quan hệ Mỹ-EUvốn bị tan vỡ dưới thời người tiền nhiệm Donald Trump, mặt khác là để 'siết chặt' hàng ngũ chống Trung Quốc.
Thông điệp “Nước Mỹ đã trở lại"
Đây chính là thông điệp xuyên suốt trong chuyến công du châu Âu vừa qua của Tổng thống Joe Biden.
Mỹ cần tái khẳng định vai trò đi đầu trong các định chế đa phương và củng cố mối quan hệ hợp tác với các nước cùng chia sẻ giá trị và lợi ích với Mỹ.
Để làm được điều này, trước hết, Mỹ cần hàn gắn lại mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương và quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), vốn đã bị sứt mẻ nghiêm trọng dưới thời ông Donald Trump.
Martin Quencez, chuyên gia nghiên cứu thuộc tổ chức nghiên cứu-tư vấn của Đức German Marshall Fund of the United States (GMF) phát biểu: “Mục tiêu của ông Biden là hàn gắn mối quan hệ Mỹ-EU. Những vụ tai tiếng thường xuyên, hay chuyện phơi bày công khai những bất đồng giữa châu Âu và Mỹ sẽ không còn nữa. Ngược lại, quan hệ Washington-Brussels giờ đây khá tốt đẹp và đoàn kết. Ông Biden luôn muốn chứng tỏ sự đoàn kết và gắn kết với châu Âu, qua đó bắt đầu hình thành một lịch trình mới cho mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương”.
Tuy nhiên, những cử chỉ thân thiện này của nguyên thủ Mỹ không thể che giấu được một nỗi ám ảnh lớn khác.
Ông Jo Coelmont, chuyên gia về các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương của Viện Egmont, Bỉ, nói: “Vấn đề đầu tiên của ông Biden là chính sách đối nội của Mỹ, sự phân cực của xã hội, dịch Covid-19, và Quốc hội nước này. Vấn đề lớn thứ hai chính là Trung Quốc”.
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã hồi phục nhanh bất chấp cuộc khủng hoảng Covid-19. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc năm 2021 là 8,5%. Với nhịp độ này, Trung Quốc đang trên đà soán ngôi Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Bị "tụt hạng", Mỹ có nguy cơ mất dần tầm ảnh hưởng. Thế nên, chính quyền của ông Biden mong muốn các đồng minh châu Âu tỏ ra cứng rắn hơn với Trung Quốc, chẳng hạn như hạn chế bớt các đầu tư của nước này trong nhiều dự án hạ tầng trọng điểm của châu Âu, giảm lệ thuộc vào công nghệ Trung Quốc, công khai lên án các vụ vi phạm nhân quyền ở Trung Quốc...
Trên bình diện quốc tế, Washington cũng muốn các đồng minh có một vai trò trong cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung.
Đối với Mỹ, sự hiện diện quân sự của châu Âu - chủ yếu là Anh và Pháp - tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vẫn luôn có một giá trị biểu tượng quan trọng.
EU muốn thoát khỏi "cái bóng" của Mỹ?
Cuộc chiến thương mại do ông Trump khởi xướng đã để lại nhiều di hại.
Đối với EU, 4 năm cay đắng vừa qua đủ để cho khối này trưởng thành và ý thức được rằng, EU cần phải “tự lực tự cường” phần nào về kinh tế, đặc biệt là phải độc lập về chính trị, quốc phòng.
Đối với Trung Quốc, EU tỏ rõ lập trường khác biệt với Mỹ và không muốn bị lôi kéo vào cuộc cạnh tranh giữa 2 "gã khổng lồ".
Ông Sven Biscop, làm việc tại Viện Egmont, nhận định: “Việc Trung Quốc trở thành cường quốc là một vấn đề đối với Mỹ, bởi Washington tất nhiên vẫn muốn mình là nước đi đầu thế giới. Tuy nhiên với châu Âu, đó là một chuyện có lẽ mang tính logic”.
Mỹ ngày càng ra nhiều "đòn" trừng phạt Trung Quốc, nhưng EU lại coi Bắc Kinh là “một đối tác kinh tế” và “một đối thủ hệ thống”.
Việc EU ký thỏa thuận đầu tư toàn diện với Trung Quốc hồi tháng 12/2020 là một bằng chứng rõ ràng, gây bất ngờ cho Mỹ.
Theo phân tích của Pierre Haroche, chuyên gia về an ninh châu Âu làm việc tại Viện Nghiên cứu về chiến lược thuộc trường Quân sự (IRSEM), thỏa thuận này minh họa rõ nét cho khái niệm “tự chủ chiến lược” được Ủy ban châu Âu (EC) xúc tiến từ nhiều tháng trước đó.
Chuyên gia Pierre Haroche nhận định: “Một mặt, châu Âu nhắc đến 'quyền tự quyết' để khẳng định Brussels không cần đợi sự cho phép của Mỹ mới 'dám' làm việc với Trung Quốc, giống như nước Mỹ thời ông Donald Trump đã không hỏi ý kiến châu Âu khi ký thỏa thuận ‘giai đoạn 1’ với Trung Quốc hồi tháng 1/2020."
Mặt khác, EU muốn nhấn mạnh rằng, tham vọng tự chủ của họ cũng đã được 'mở rộng', nghĩa là đây không phải là một bức bình phong cho một kiểu tân bảo hộ mậu dịch. Chiến lược này vẫn luôn tương thích với truyền thống mở rộng trao đổi mậu dịch của châu Âu với điều kiện đó là những cuộc trao đổi cân bằng và không tạo ra một lợi thế mất cân xứng cho các đối thủ cạnh tranh của châu Âu”, chuyên gia này cho biết thêm.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron ngay sau khi kết thúc hội nghị thượng đỉnh G7 ở Anh từng nói rõ, ông mong muốn một EU “không phải là chư hầu của Trung Quốc, nhưng cũng không đi theo lập trường của Mỹ trong hồ sơ này”.
Khi Mỹ là đồng minh quốc phòng...
Lập trường này của EU không phải không có cơ sở.
Theo một cuộc thăm dò gần đây do Hội đồng châu Âu (EC) thực hiện tại 11 nước thành viên EU, đa số những người được hỏi đều coi Trung Quốc là một đối tác, rất hiếm khi là đồng minh cũng như đối thủ.
Là một người rất am hiểu châu Âu và được bao bọc bởi một dàn cố vấn thân châu Âu, Tổng thống Biden hoàn toàn ý thức được những vấn đề trên.
Khác với người tiền nhiệm, ông chủ Nhà Trắng Biden đã tỏ ra khôn khéo khi đề cập vấn đề Trung Quốc.
Bà Alexandra de Hoop Scheffer, Giám đốc GMF, khẳng định: “Ông Joe Biden biết cách gói ghém các lợi ích, mục tiêu trong khuôn khổ lớn hơn khi đưa ra lập luận dân chủ chống chuyên chế, khiến châu Âu không có nhiều chọn lựa phải nhanh chóng quyết định. Việc Mỹ không ngừng nhắc lại quan điểm này đã buộc châu Âu, nhất là trong hồ sơ Trung Quốc, cũng phải từ từ ngả theo Mỹ. Chúng ta thấy rõ điều này trong khuôn khổ cuộc họp NATO, bởi vì tuyên bố chung của khối này lần đầu tiên đã xác định Trung Quốc là một 'thách thức hệ thống', tức là một ‘mối đe dọa tiềm tàng’”.
Liệu EU có đủ đoàn kết trước sức ép này của Mỹ trong cách đối phó với Trung Quốc?
Trên thực tế, nội bộ EU đã bị chia rẽ trong cách cư xử với Trung Quốc. Nhiều nước thành viên như Ba Lan, Cộng hòa Czech, các nước vùng Baltic luôn coi Mỹ là đồng minh quân sự chiến lược.
Tuy nhiên, bà Scheffer lưu ý rằng, hồ sơ Trung Quốc còn là một phần trong chiến lược “mặc cả” của EU để có được sự hậu thuẫn của Mỹ về an ninh quốc phòng.
Bà nói: “Nghĩa là EU đi theo Mỹ trong chính sách kiềm hãm, đối đầu với Trung Quốc, nhưng đổi lại, liên minh kinh tế-chính trị này muốn Mỹ bảo đảm quốc phòng tập thể trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để đối phó với mối đe dọa từ Nga.
Hình thức mặc cả này cũng được áp dụng trong quan hệ song phương Mỹ-Đức với dự án Nord Stream 2. Washington dỡ bỏ các lệnh trừng phạt nhắm vào công trình này để 'hâm nóng' quan hệ với Đức, nhưng đổi lại, Washington cũng yêu cầu Berlin thay đổi thái độ đối với Trung Quốc và hỗ trợ Mỹ trong một cách tiếp cận cứng rắn hơn”.
Mối nhân duyên không dễ chối bỏ
Đến châu Âu lần này, ông Biden không đi với "đôi bàn tay trắng". Việc Mỹ dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với dự án đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 2 và kết thúc 17 năm tranh chấp thương mại giữa Boeing và Airbus cho thấy rõ ý muốn hòa giải của chính quyền Tổng thống Biden, mở ra một cách tiếp cận mới cho mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương.
Bà Scheffer nhận xét: “Điều thú vị cần quan sát ở đây là Tổng thống Biden chấp nhận một số đề nghị từ EU dưới hình thức gọi là hợp tác để có thể đề cập đến tất cả những chủ đề mà EU và Mỹ vẫn còn nhiều điểm mâu thuẫn, thậm chí là bất đồng. Chẳng hạn như cuộc họp EC-Mỹ để thảo luận về các vấn đề thương mại, công nghệ; cuộc họp EC-Mỹ để bàn về Nga.
Đây thật sự là một điểm mới, cho thấy rõ EU đang tìm cách khẳng định vị thế như một tác nhân thực sự, được chính quyền Biden nhìn nhận về những chủ đề vừa mang tính kinh tế, thương mại vừa cả chiến lược”.
Theo bà Scheffer, có nhiều dấu hiệu cho thấy chính quyền Tổng thống Biden đã công nhận vị thế của EU trong nhiều lĩnh vực, song rào cản duy nhất còn lại gây trở ngại cho con đường “tự chủ chiến lược” của châu Âu để có thể đối thoại “bình đẳng” với Mỹ là vấn đề tự chủ quốc phòng, cho dù đã có một số bước tiến đáng kể.
Chuyên gia Scheffer nói: “Điều thú vị là chính quyền của Tổng thống Biden tỏ ra rất cởi mở với ý tưởng một châu Âu tự chủ trong lĩnh vực quốc phòng, khác hẳn với các chính quyền tiền nhiệm, nhưng với một điều kiện là Mỹ phải được tham gia các dự án quốc phòng của châu Âu. Chẳng hạn như, chính quyền Mỹ thời Donald Trump từng gây áp lực với Brussels để Mỹ có thể được tham gia dự án ‘hợp tác mang tính cơ cấu thường trực về quốc phòng’ (PESCO), giờ ông Biden đã có được điều đó..."
Có thể nói, Mỹ chấp nhận châu Âu có một nền quốc phòng vững mạnh hơn với tư cách là đối tác của Mỹ nhưng với điều kiện là nền công nghiệp quốc phòng Mỹ cũng có thể được hưởng lợi. Điều này rõ ràng không hẳn vô hại cho châu Âu và các ngành công nghiệp quốc phòng của châu Âu.