Quản lý rừng bền vững: Nền tảng để 'hóa giải' những thách thức của ngành gỗ

Quản lý rừng và cấp chứng chỉ rừng bền vững là giải pháp quan trọng để kiểm soát nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu gỗ hợp pháp; khẳng định thương hiệu của sản phẩm gỗ và uy tín của Việt Nam.

Quản lý rừng và cấp chứng chỉ rừng bền vững. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Quản lý rừng và cấp chứng chỉ rừng bền vững. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế, nhiều ý kiến cho rằng quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng (CCR) không còn là sự lựa chọn, mà là điều kiện phát triển tất yếu - nền tảng để “hóa giải” những thách thức của ngành gỗ trong thời gian tới.

Quản lý rừng và cấp chứng chỉ rừng bền vững cũng chính là cam kết mạnh mẽ với quốc tế trong việc kiểm soát nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu gỗ hợp pháp; khẳng định thương hiệu của sản phẩm gỗ và uy tín của Việt Nam.

Nhiều thách thức đối với ngành gỗ

Chia sẻ tại Hội nghị đánh giá công tác quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, diễn ra trong ngày 2/10, ông Nguyễn Văn Diện - Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, nhấn mạnh rừng có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Vì vậy, quản lý rừng bền vững là nhiệm vụ quan trọng, góp phần đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đóng góp cho giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Về khía cạnh chính sách, ông Diện cho biết trong thời gian qua, CCR đã được cụ thể hóa bằng nhiều văn bản như: Chiến lược Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Đề án quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng đến năm 2030, Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 mục tiêu đến năm 2030, và quy hoạch Lâm nghiệp quốc gia đến năm 2030.

Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản Việt Nam liên tục tăng nhanh và đạt mốc 17,35 tỷ USD vào năm 2024, góp phần quan trọng vào thành tựu xuất khẩu của ngành nông nghiệp và của cả nước; góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hơn 500.000 lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp chế biến gỗ; hàng triệu hộ gia đình tham gia vào hoạt động trồng rừng.

 Ông Nguyễn Văn Diện - Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát biểu. (Ảnh: Quỳnh Hương)

Ông Nguyễn Văn Diện - Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phát biểu. (Ảnh: Quỳnh Hương)

Tuy vậy, ông Diện cũng lưu ý mặc dù đạt được kết quả quan trọng về triển khai thực hiện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, song đến nay diện tích rừng của tổ chức được xây dựng phương án quản lý rừng bền vững mới đạt hơn 70%; diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững (PEFC và FSC) mới đạt khoảng gần 15% diện tích rừng sản xuất.

“Chúng ta cũng đang chứng kiến các thách thức mang tính toàn cầu. Đó là biến đổi khí hậu, cạnh tranh thương mại, các yêu cầu của thị trường ngày càng khắt khe đối với nguyên liệu từ rừng và các sản phẩm từ gỗ về các vấn đề hợp pháp, truy xuất nguồn gốc, tính bền vững và toàn vẹn môi trường,” ông Diện thông tin và nhấn mạnh đây là những thách thức, rào cản lớn.

Đơn cử như Đạo luật Nông nghiệp của Hoa Kỳ; Quy chế gỗ 995 của EU yêu cầu các nhà nhập khẩu gỗ và đồ gỗ của EU về quản trị rừng, thương mại lâm sản hợp pháp; Luật 166/2012 của Úc cấm khai thác buôn bán gỗ bất hợp pháp; Quy định của EU về sản xuất hàng hóa không gây mất rừng.

Điều đáng nói hơn, theo ông Diện là rừng của Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức như mất rừng, suy thoái rừng, chuyển đổi rừng sang sản xuất nông nghiệp, cháy rừng do gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan.

Từ những thách thức trên, ông Diện nêu băn khoăn để thực hiện hóa mục tiêu giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt 23-25 tỷ USD vào năm 2030 là nhiệm vụ khó khăn của hoạt động xuất khẩu gỗ và lâm sản Việt Nam.

Phấn đấu khoảng 1 triệu ha rừng đạt chuẩn quốc tế vào năm 2030

Đề cập đến giải pháp, ông Diện cho rằng để kiểm soát nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu gỗ hợp pháp, việc thực hiện CCR là ưu tiên quan trọng của ngành lâm nghiệp, đã xác định trong Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam; trong đó đặt mục tiêu phấn đấu diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế đạt khoảng 1 triệu ha vào năm 2030.

Ông Diện nhấn mạnh thực hiện CCR là giải pháp căn cơ, nhằm cung cấp nguyên liệu gỗ có chứng chỉ. Đây là đầu vào quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu sản phẩm gỗ giúp sản phẩm gỗ của Việt Nam có chỗ đứng bền vững tại các thị trường xuất khẩu chủ lực như Mỹ, EU,…

“Việc thực hiện tốt CCR cũng mở ra cơ hội để tăng thu nhập cho hộ gia đình trồng rừng lên khoảng 10-20% so với gỗ rừng trồng không có chứng chỉ; từng bước khẳng định thương hiệu của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thế giới, cũng như trách nhiệm của Việt Nam trong việc nói không với nguyên liệu không có nguồn gốc, xuất xứ hợp pháp,” ông Diện nói.

 Bà Nguyễn Bích Hằng, cán bộ quản lý Dự án “Thúc đẩy thực hiện quản lý rừng bền vững và đa dạng sinh học ở Việt Nam” của Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên - WWF. (Ảnh: Quỳnh Hương)

Bà Nguyễn Bích Hằng, cán bộ quản lý Dự án “Thúc đẩy thực hiện quản lý rừng bền vững và đa dạng sinh học ở Việt Nam” của Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên - WWF. (Ảnh: Quỳnh Hương)

Đề cập đến giải pháp thúc đẩy thực hiện chứng chỉ rừng, ông Trần Lâm Đồng - Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, cho rằng các địa phương cần chú trọng hỗ trợ, nâng cao năng lực và quản lý chất lượng.

Trong đó, giải pháp trước hết, theo ông Đồng là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực cho các bên liên quan về quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng; quản lý chặt chẽ hoạt động cấp chứng chỉ theo đúng quy định; đồng thời thúc đẩy các hệ thống chứng chỉ nhằm bảo đảm chất lượng.

Ông Đồng cũng đề xuất phát triển hệ thống cấp mã số rừng trồng, quản lý chuỗi sản xuất và truy xuất nguồn gốc. Bởi việc liên kết sản xuất theo quy mô lớn giữa hiệp hội, doanh nghiệp và chủ rừng, sẽ góp phần huy động nguồn lực, tạo sức mạnh chung, hướng tới phát triển lâm nghiệp bền vững.

Đóng góp thêm giải pháp, bà Nguyễn Bích Hằng, cán bộ quản lý Dự án “Thúc đẩy thực hiện quản lý rừng bền vững và đa dạng sinh học ở Việt Nam” của Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF), cho rằng bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ là mục tiêu mà còn là phương pháp để phát triển bền vững.

Thời gian qua, WWF đã phối hợp với nhiều đối tác trong và ngoài nước triển khai các mô hình quản lý rừng gắn với bảo tồn đa dạng sinh học. Nổi bật là việc cấp chứng chỉ rừng FSC cho nhóm hộ, hợp tác xã tại Quảng Trị, vừa đảm bảo quản lý rừng bền vững vừa mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế; hay mô hình liên kết doanh nghiệp với nhóm hộ tại Quảng Nam; doanh nghiệp độc lập ở Phú Yên đạt chứng chỉ FSC trên diện tích riêng.

Với rừng ngập mặn, WWF đã kết hợp bảo tồn với sinh kế nuôi trồng thủy sản, hướng tới chuỗi giá trị bền vững đạt chứng nhận ASC và Organic.

Tuy vậy, bà Nguyễn Bích Hằng cũng đặc biệt lưu ý rằng để các mô hình này phát huy hiệu quả lâu dài và có sức lan tỏa, cần có sự đồng hành chặt chẽ giữa Nhà nước, cộng đồng, khu vực tư nhân và các tổ chức phát triển./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/quan-ly-rung-ben-vung-nen-tang-de-hoa-giai-nhung-thach-thuc-cua-nganh-go-post1067608.vnp