Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng Quân đội về tổ chức: Tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc để năm 2030 Quân đội tiến lên hiện đại, đây là quan điểm mới, chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta; được tính toán hết sức cẩn trọng, có tính khả thi cao ở thời điểm công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo hơn 35 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chủ trương này cũng phù hợp với sự phát triển của thế giới, khu vực và kết quả, kinh nghiệm của quá trình đổi mới, ưu tiên hiện đại hóa một số quân, binh chủng, lực lượng theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Quan điểm mới của Đảng về tổ chức Quân đội: Tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc giai đoạn mới
Trên phương diện cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” là bài học kinh nghiệm quý báu của dân tộc Việt Nam, được đúc kết qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước; đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Kế thừa và phát triển những bài học ông cha ta để lại; trung thành và vận dụng sáng tạo những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta. Đây là quan điểm, chủ trương nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội của Đảng và được thể chế hóa ngày càng hoàn thiện trong hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, luật, nghị định, nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, nhất là Kết luận số 16-KL/TW ngày 7/7/2017 của Bộ Chính trị (khóa XII) về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Quân ủy Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 606-NQ/QUTW ngày 16/6/2018 về lãnh đạo triển khai Kết luận số 16-KL/TW của Bộ Chính trị; chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) và Đề án về điều chỉnh tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2018 - 2021 và những năm tiếp theo. Đồng thời, rà soát, nắm tình hình tổ chức, biên chế trong toàn quân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, triển khai đồng bộ các giải pháp xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, có sức cơ động và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao.
Đặc biệt, trong lĩnh vực quốc phòng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”1; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây là chủ trương, quan điểm mới thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy, nhận thức mới của Đảng, Nhà nước ta đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Vì vậy, cần nhận thức một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện nội dung cơ bản, cốt lõi về quan điểm, chủ trương của Đảng để tạo sự thống nhất, đồng thuận cao trong mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị nhằm quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ và hiệu quả.
Sự cần thiết phải xây dựng Quân đội về tổ chức: Tinh, gọn, mạnh
Những năm tới, tình hình thế giới và khu vực còn có nhiều diễn biến mới phức tạp, khó đoán định. “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”2. Nước ta sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao; hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn. Đảng ta chỉ rõ: “Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối nước ta trong thời gian tới”3. Bởi vậy, tổ chức Quân đội tinh, gọn, mạnh, “cốt tinh không cốt nhiều”, có tính cơ động cao, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống; nhỏ mà không yếu, ít mà địch được nhiều, thắng được hiện đại là nhiệm vụ quan trọng được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân.
Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng về tổ chức: Tinh, gọn, mạnh không chỉ góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, mà còn trực tiếp hiện thực hóa các mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, phương thức, nhiệm vụ, giải pháp trong chiến lược quốc phòng Việt Nam, chiến lược quân sự Việt Nam và các chủ trương về nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, chủ động tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước, góp phần tích cực cho hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Mặt khác, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ đã có những tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội, quân sự, quốc phòng và an ninh... ở các cấp độ trên phạm vi toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia. Quốc phòng, quân sự là lĩnh vực đặc thù ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Định hướng nâng cao hiệu quả xây dựng Quân đội: Tinh, gọn, mạnh
Ngày nay, xây dựng Quân đội ta theo hướng tổ chức: Tinh, gọn, mạnh trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh đến các vấn đề quân sự, quốc phòng; đặt ra trong mối quan hệ giữa con người và vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại. Theo đó, tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, khoa học đòi hỏi phải tập trung triển khai thực hiện đồng bộ định hướng cơ bản sau:
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân
Đây vừa là định hướng vừa là giải pháp quan trọng nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân. Xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Vì vậy, vấn đề quan trọng trước tiên cần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân sự mà không có chính trị thì như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”4; đồng thời, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội, xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo toàn quân hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; gắn xây dựng cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ; tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới”.
Xây dựng Quân đội tinh, gọn mạnh sẽ tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Trong khi quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về xây dựng Quân đội, cần làm rõ việc xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, bảo đảm cho Quân đội ta ngày càng mạnh lên, tính cơ động cao, cơ cấu tổ chức hợp lý, vũ khí, trang bị hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cùng với thống nhất nâng cao nhận thức, khắc phục khó khăn, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, có chủ trương, giải pháp cụ thể, triển khai thực hiện từng bước theo lộ trình, chặt chẽ, đồng bộ, kiên quyết, kiên trì, sát thực tiễn. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, gắn công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và chế độ, chính sách, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình tổ chức thực hiện.
Quán triệt và thực hiện nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Đề án xây dựng Quân đội về tổ chức: Tinh, gọn, mạnh
Tập trung triển khai định hướng, giải pháp, khâu đột phá trong điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, linh hoạt. Đẩy mạnh việc rà soát quân số, tổ chức, trang bị của từng cơ quan, đơn vị, làm cơ sở điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Theo đó, cùng với tinh giảm một số bộ phận, khâu trung gian,... Bộ tiếp tục đầu tư xây dựng các lực lượng đã được xác định tiến thẳng lên hiện đại; nghiên cứu điều chỉnh, điều chuyển, thành lập một số đơn vị dự bị chiến lược; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có tổ chức hợp lý, chất lượng cao; sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sửa chữa quốc phòng theo nhóm sản phẩm, công nghệ; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng...
Tập trung thực hiện tốt việc giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, nhất là cấp ủy, chỉ huy các cấp về nhiệm vụ điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới
Nội dung giáo dục cần tập trung phổ biến, quán triệt làm rõ quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương và các chỉ thị, hướng dẫn của trên về điều chỉnh tổ chức Quân đội. Trong đó, trọng tâm là quán triệt thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; nhất là Kết luận 16-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021 và những năm tiếp theo. Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Trên cơ sở đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành, lực lượng có liên quan, với một lộ trình, kế hoạch thống nhất, bước đi phù hợp, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ; tạo sự đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện; gắn việc quán triệt, giáo dục với các biện pháp tổ chức hành chính, xây dựng nền nếp, phương pháp, tác phong làm việc khoa học, nhằm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm đối với công tác quan trọng này.
Đột phá về tổ chức và trang bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho quốc phòng, an ninh
Trước hết phải quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng về điều chỉnh tổ chức Quân đội, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: Tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh tổ chức Quân đội để có cơ cấu cân đối giữa các quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, lực lượng thường trực và dự bị động viên; Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ Quân đội: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”5; một số quân chủng, binh chủng sẽ hoàn thành hiện đại. Đây là bước phát triển mới về tư duy, nhận thức, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới; Đề án chiến lược bảo đảm vũ khí, trang bị cho Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Trên cơ sở đó, toàn quân đẩy mạnh việc rà soát, đánh giá cụ thể quân số, tổ chức, trang bị của từng cơ quan, đơn vị, làm cơ sở điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Quá trình rà soát, điều chỉnh cần bảo đảm khách quan, toàn diện, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Cùng với tinh giản cần tiếp tục đầu tư xây dựng các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại; nghiên cứu điều chỉnh, điều chuyển, thành lập một số đơn vị dự bị chiến lược; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có tổ chức hợp lý, chất lượng ngày càng cao; sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sửa chữa quốc phòng theo nhóm sản phẩm, công nghệ; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại
Đại hội XIII của Đảng xác định: Phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện vấn đề này, trước hết tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng có quy mô, tổ chức, cơ chế quản lý phù hợp, bảo đảm tập trung, thống nhất về quản lý Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm tự chủ của các cơ sở công nghiệp quốc phòng. Kiện toàn tổ chức ngành kỹ thuật theo hướng “tinh, gọn, mạnh, thống nhất”, phù hợp với tính năng công nghệ của vũ khí, trang bị kỹ thuật với nhiệm vụ của từng cấp, bảo đảm công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo thông suốt, không chồng chéo. Đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao theo hướng tập trung, thống nhất.
Với công nghiệp quốc phòng, an ninh thì nội lực là quyết định. Vì thế chúng ta phải vươn lên, làm chủ công nghệ mới để sản xuất được các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... Theo đó, công nghiệp quốc phòng, an ninh chính là bộ phận không thể thiếu phục vụ quá trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân. Tự chủ về công nghiệp quốc phòng nhằm nâng cao tính chủ động trong bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật cho Quân đội, từng bước hạn chế mua sắm vũ khí trang bị, qua đó giảm được sự phụ thuộc vào công nghệ của nước ngoài; giữ được yếu tố bí mật cho vũ khí trang bị, nhất là tính năng kỹ - chiến thuật; tăng tính chủ động trong nghiên cứu, sản xuất, bảo đảm kỹ thuật, bảo hành, bảo trì; tạo ra sản phẩm có giá thành hợp lý, góp phần tiết kiệm ngân sách quốc phòng. Theo đó: “Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”6.
Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn, phù hợp với điều kiện mới. Từng bước hội nhập công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp quốc gia, thúc đẩy công nghiệp quốc gia phát triển. Ưu tiên phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, có tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, làm nòng cốt xây dựng các tổng công ty tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự; tập trung vào các hệ thống: tên lửa, tự động hóa chỉ huy, tác chiến không gian mạng; phòng, chống chiến tranh hạt nhân, hướng tới tác chiến vũ trụ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xây dựng Quân đội về tổ chức: Tinh, gọn, mạnh, linh hoạt là vấn đề rất quan trọng, được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng hết sức quan tâm, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống. Bởi vậy, quá trình triển khai thực hiện phải có lộ trình, làm thận trọng từng bước, làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc ngay từ cơ sở; chủ động bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật. Đó cũng là khâu đột phá mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI đã đề ra, cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện, với nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chú thích:
1,2,3,5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tập I, tr. 107, 108, 157, 158.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tập 6, tr.130.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, tr.159.