Quảng Trị phấn đấu thực hiện thành công các nhiệm vụ của công tác dân số trong tình hình mới

Nhân hưởng ứng Tháng hành động quốc gia về dân số và kỉ niệm 58 năm Ngày Dân số Việt Nam 26/12 (1961-2019), phóng viên Báo Quảng Trị đã có cuộc trao đổi với Giám đốc Sở Y tế ĐỖ VĂN HÙNG xung quanh các nội dung liên quan đến tình hình thực hiện công tác dân số trong tình hình mới tại địa phương.

- Thưa ông! Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới, vậy xin ông cho biết những điểm mới của nghị quyết là gì?

- Ngoài việc đánh giá những thành tựu, hạn chế sau 25 năm thực hiện Nghị quyết 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII về chính sách dân số - KHHGĐ, Nghị quyết số 21-NQ/ TW có những điểm mới đáng chú ý. Một là về quan điểm chỉ đạo, điểm mới đáng chú ý đầu tiên về công tác dân số trong tình hình mới chính là việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề dân số về quy mô, cơ cấu, phân bố chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế, xã hội. Xác định vấn đề duy trì vững chắc mức sinh thay thế có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dân số. Do đó, việc duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con); giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế đã được Ban Chấp hành Trung ương đề ra như là mục tiêu cụ thể đầu tiên, quan trọng trong công tác dân số. Điều đó cũng có nghĩa là đối với những tỉnh mức sinh còn cao thì tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm sinh để đạt mức sinh thay thế. Với quan điểm đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cũng nêu quan điểm, Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số.

Hai là, những điểm mới về biện pháp thực hiện đó là đề cao sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp: Đưa công tác dân số, đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số thành một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội…

Đổi mới về nội dung tuyên truyền: Nghị quyết số 21-NQ/TW nêu rõ nội dung truyền thông, giáo dục phải chuyển mạnh sang chính sách dân số và phát triển nhưng vẫn tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động. Đổi mới toàn diện nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường. Đổi mới nội dung tập huấn cho cán bộ dân số: Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách dân số và phát triển. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số toàn diện về quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố dân số. Tiếp tục củng cố mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và thực hiện các biện pháp sàng lọc trước sinh, sơ sinh, phát triển mạnh hệ thống chuyên ngành lão khoa trong các cơ sở y tế…

 Hội nghị chuyên đề về chính sách dân số - KHHGĐ giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn 2030. Ảnh: NVH

Hội nghị chuyên đề về chính sách dân số - KHHGĐ giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn 2030. Ảnh: NVH

- Vậy thưa ông, trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới, Quảng Trị có những khó khăn, thách thức gì?

- Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa VII, 12 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 26/7/2006 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị khóa XIV và các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình của tỉnh đạt được những kết quả tích cực, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Nhận thức và hành động của toàn xã hội về dân số - KHHGĐ đã được nâng lên rõ rệt. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đã coi công tác dân số là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác dân số trong tình hình mới, Quảng Trị vẫn còn những khó khăn và thách thức.

Một là, về quy mô dân số: Quảng Trị đang thuộc nhóm có mức sinh cao, tổng tỉ suất sinh đang ở mức 2,48 con (bình quân chung của cả nước là 2,09 con). Đặc biệt, mức sinh ở các địa bàn miền núi, miền biển còn rất cao, tỉ suất sinh thô trên 22 ‰ và tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên trên 25%.

Hai là, cơ cấu dân số có nhiều thay đổi, mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh và chưa tận dụng được lợi thế cơ cấu dân số vàng. Tỉ trọng dân số phụ thuộc trẻ (từ 0-14 tuổi) giảm nhưng tỉ trọng dân số phụ thuộc già (65 tuổi trở lên) tăng nhanh, đến nay chiếm tỉ lệ hơn 9% tổng dân số và đã bước vào giai đoạn già hóa dân số. Mặt khác, Quảng Trị cũng trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Do điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương còn khó khăn và nhóm dân số trong độ tuổi lao động, nhất là lao động trẻ (từ 18-30 tuổi) tìm kiếm cơ hội làm ăn ở các tỉnh bạn tương đối nhiều nên chưa phát huy được lợi thế cơ cấu dân số vàng. Tỉ số giới tính khi sinh đã ở mức 112,9 trẻ nam/100 trẻ nữ và đang có xu hướng tăng hầu hết ở các địa phương trong tỉnh.

Ba là, chất lượng dân số vẫn còn thấp: Tuổi thọ bình quân ở mức trên 68 tuổi, thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước (73 tuổi). Mặt khác, đại bộ phận người cao tuổi sống ở vùng nông thôn nên ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe nên tỉ lệ người già mắc bệnh cao. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã được cải thiện nhưng vẫn còn cao, nhất là tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng về chiều cao; tình trạng quan hệ tình dục sớm, có thai tuổi vị thành niên, li hôn, li thân trong giới trẻ có xu hướng tăng. Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống ở đồng bào dân tộc ít người vẫn còn tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng dân số.

- Với chức năng là cơ quan quản lí nhà nước về lĩnh vực dân số, trong thời gian tới ngành Y tế cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp gì, thưa ông?

- Nhằm tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới phù hợp với thực tế của địa phương, Sở Y tế đã tham mưu Tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động số 110-CTHĐ/TU ngày 27/4/2018 về công tác dân số của địa phương đến năm 2030, với 6 nhóm mục tiêu, bao gồm 21 chỉ tiêu và 6 nhóm giải pháp. Trong thời gian tới, Sở Y tế tiếp tục tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và phối hợp với các sở, ban, ngành cấp tỉnh và UBND các huyện, thị thành phố tiếp tục cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp của Chương trình hành động Tỉnh ủy theo từng năm, từng giai đoạn và phù hợp với đặc thù của mỗi địa phương. Trước mắt, Sở Y tế sẽ tập trung chỉ đạo và thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:

 Một hoạt động truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ. Ảnh: ĐV

Một hoạt động truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ. Ảnh: ĐV

Một là, tập trung chỉ đạo đội ngũ cán bộ ngành Y tế, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác dân số tập trung tham mưu cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa những nội dung của công tác dân số trong tình hình mới, qua đó đổi mới nhận thức, tư duy về vị trí, vai trò của công tác dân số hiện nay. Bởi trước đây, chính sách DS-KHHGĐ chỉ tập trung vào một nội dung là KHHGĐ với mục tiêu giảm sinh thì nay, chính sách dân số mới tập trung vào sáu nội dung gồm: Phấn đấu duy trì ổn định vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ lệ giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; duy trì và tận dụng có hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số; nâng cao chất lượng dân số; phân bổ dân số phù hợp với quá trình phát triển. Như vậy, phạm vi của công tác dân số trong tình hình mới là rộng hơn nhiều so với trước đây. Một điểm cần lưu ý là việc chuyển trọng tâm sang dân số và phát triển nhưng không phải là “từ bỏ KHHGĐ” mà việc thực hiện KHHGĐ theo phương thức mới, đó là từ miễn phí hoàn toàn sang miễn phí từng bộ phận, đẩy mạnh việc cung cấp phương tiện tránh thai, dịch vụ KHHGĐ sang các kênh tiếp thị xã hội và xã hội hóa phương tiện tránh thai và dịch vụ KHHGĐ để giảm áp lực ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác dân số, cũng như tạo tính bền vững cho công tác này.

Hai là, trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, Sở Y tế sẽ phối hợp với các sở, ngành liên quan tiến hành rà soát để đề xuất HĐND, UBND tỉnh ban hành một số chính sách, quy định về công tác dân số phù hợp với yêu cầu chuyển hướng của công tác dân số trong tình hình mới phù hợp với thực tế của địa phương. Trước mắt là rà soát lại các chính sách hỗ trợ hiện nay của địa phương để tham mưu UBND tỉnh đề xuất HĐND tỉnh điều chỉnh, bổ sung các mục tiêu, chỉ tiêu, giải pháp và các chính sách hỗ trợ của địa phương cho công tác dân số theo Nghị quyết 11/2017/ NQ-HĐND tỉnh phù hợp với Chương trình hành động số 110-CTHĐ/TU của Tỉnh ủy để tiếp tục thực hiện trong giai đoạn 2021 - 2030.

Ba là, đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về dân số trên tất cả các lĩnh vực quy mô, cơ cấu và nâng cao chất lượng dân số. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt với nội dung, hình thức và cách tiếp cận phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng. Tiếp tục triển khai chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình tại các xã khó khăn, tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao; duy trì nhân rộng mô hình thôn, khu phố không có người sinh con thứ 3 trở lên. Tổ chức triển khai có hiệu quả các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức về bình đẳng giới; đẩy mạnh truyền thông giáo dục về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh; các hoạt động truyền thông về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và giảm tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.

Bốn là, mở rộng, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ dân số toàn diện về quy mô, cơ cấu, chất lượng. Thực hiện cung cấp miễn phí cho các đối tượng chính sách xã hội; trợ giá phương tiện tránh thai và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho người có thu nhập thấp, vùng kinh tế xã hội khó khăn; đẩy mạnh xã hội hóa phương tiện tránh thai, dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình tại các khu vực thành thị, nông thôn. Phát triển mạng lưới cung cấp các dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh tật trước sinh, sơ sinh, hỗ trợ sinh sản, tư vấn kiểm tra sức khỏe sinh sản trước hôn nhân. Năm là, tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lí, điều phối các hoạt động dân số tại địa phương.

- Xin trân trọng cảm ơn ông!

Đức Việt (thực hiện)

Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/default.aspx?tabid=71&modid=415&itemid=144940