Quốc dân Đại hội Tân Trào - 'Hội nghị Diên Hồng' thời đại Hồ Chí Minh
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của một đất nước độc lập. Để đi tới thành quả đó, chúng ta đã phải trải qua một chặng đường đầy cam go, thử thách, đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự đồng lòng, ủng hộ của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đại hội Quốc dân Tân Trào - 'Hội nghị Diên Hồng' thời đại Hồ Chí Minh là một minh chứng sống động cho tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm chớp thời cơ lịch sử đứng lên giành độc lập của nhân dân ta.

Đình Tân Trào là nơi Quốc dân Đại hội thông qua chủ trương Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc. Ảnh: CTV
Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất ý chí và hành động trong giờ phút quyết liệt nhất; đồng thời tạo ra một cơ sở hợp pháp cho chính quyền cách mạng, ngay từ cuối năm 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ trương tổ chức một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội. Tháng 10/1944, Người gửi thư cho đồng bào toàn quốc giải thích rõ về chủ trương này: “Chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”[1].
Đồng thời, Người khẩn thiết kêu gọi: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh! Tôi mong rằng các đảng phái và các đoàn thể đều ra sức chuẩn bị cùng nhau thảo luận, để khai cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội trong năm nay. Như vậy thì ngoại viện nhất định cầu được, cứu quốc nhất định thành công”[2].
Ngay sau đó, Tổng bộ Việt Minh đã gửi thư mời hỏa tốc đến đại biểu của tất cả các kỳ, các tỉnh. Ở Tân Trào, mặc dù bị ốm rất nặng, Người vẫn đôn đốc việc chuẩn bị triệu tập hội nghị, với tinh thần: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”[3].
Vượt qua mọi khó khăn, ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội khai mạc. Đại hội diễn ra ở đình Tân Trào. Đình có ba gian, gian giữa là phòng triển lãm các chiến lợi phẩm thu được của thực dân Pháp, phát xít Nhật và những sách, báo cách mạng; gian bên phải là nơi họp, còn gian bên trái để ăn uống[4]. Hơn 60 đại biểu đại diện cho các giới, các tầng lớp nhân dân từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ cùng đại biểu Việt kiều ở Thái Lan và Lào, tượng trưng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã về dự Đại hội.
Trong không khí sôi nổi, khẩn trương và nghiêm túc, Đại hội đã nhất trí với đề nghị của Đảng Cộng sản Đông Dương về việc phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc và thông qua Mười chính sách của Mặt trận Việt Minh. Mười chính sách của Việt Minh tuy ngắn gọn nhưng đã hội đủ những quyền dân chủ cơ bản của con người, những phương hướng của chính thể dân chủ cộng hòa mà bất cứ người dân Việt Nam nào cũng dễ chấp nhận, dễ nhớ và dễ làm. Có thể xem đó chính là một chủ thuyết phát triển của thể chế mới để tập hợp đoàn kết quần chúng, không chỉ đứng lên giành chính quyền, mà còn xây dựng chính quyền mới, tổ chức lại đời sống, kiến tạo nền dân chủ cộng hòa.
Đại hội cũng nhất trí cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng chí Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch. Nghị quyết của Quốc dân Đại hội nêu rõ: Ủy ban này có nhiệm vụ chỉ huy cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và khi điều kiện cho phép thì chuyển thành Chính phủ lâm thời, “thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước”[5]. Đại hội nhất trí công nhận lá cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cánh ở giữa của Việt Minh trở thành Quốc kỳ và bài hát "Tiến quân ca" do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác trở thành Quốc ca của nước Việt Nam sau khi giành được độc lập.
Ngày 17/8/1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam chính thức ra mắt và tuyên thệ trước Quốc dân Đại hội, thề kiên quyết lãnh đạo nhân dân cả nước đấu tranh đến cùng để giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Sau đó, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam lập tức phát lệnh Tổng khởi nghĩa, hiệu triệu quốc dân đồng bào: “Hãy vùng dậy tuốt gươm lắp súng để định đoạt lấy số phận của mình”[6]. Trong giờ phút trọng đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước vùng lên khởi nghĩa: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[7].
Quốc dân Đại hội ở Tân Trào thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc trong giờ phút quyết định vận mệnh của đất nước, biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh và quyết tâm thực hiện đường lối Tổng khởi nghĩa do Đảng đề ra. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, toàn thể nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo đã nhất tề đứng lên tiến hành khởi nghĩa, lập ra chính quyền của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Quốc dân Đại hội khẳng định sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đoán định đúng tình hình và nắm bắt thời cơ; đưa ra những quyết định chính xác về tổ chức, nhất là tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để giành thắng lợi quyết định bằng tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân Việt Nam.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (1930-1945), Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.537.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (1930-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.538.
[3] Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.224.
[4] Trường Chinh - Lê Đức Thọ - Vũ Oanh - Trần Văn Giàu, Cách mạng Tháng Tám - Thời cơ nghìn năm có một, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.12.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.560 - 561.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.563.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (1930-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.596.