Quốc hội thống nhất và đổi mới - dấu ấn 10 nhiệm kỳ: Bài 2: Những bài học kinh nghiệm

10 nhiệm kỳ, 40 năm, Quốc hội có rất nhiều bài học kinh nghiệm cần được tổng kết, đúc rút kỹ lưỡng hơn để các khóa Quốc hội nối tiếp tham khảo, học tập và phát triển trên một cấp độ cao hơn, hiện đại hơn trong kỷ nguyên mới.

Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm chắc chắn thành công cho mọi hoạt động của Quốc hội

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là một tất yếu khách quan đã được hiến định. Điều 4 các Hiến pháp 1980, 1992 và 2013 đều quy định, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đó cũng là yêu cầu thiết thân của Quốc hội để có thể đóng góp thành quả lớn nhất cho cách mạng.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Ảnh: Phạm Thắng

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Ảnh: Phạm Thắng

Nếu trong chiến tranh, sự lãnh đạo của Đảng tập trung vào chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thì trong thời bình, Đảng chú trọng lãnh đạo đối với tất cả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội; trong đó chức năng giám sát được nâng lên một tầm cao mới nhằm xem xét, đánh giá đúng đắn việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Quốc hội đối với các lĩnh vực hành pháp, tư pháp và ngay cả đối với Quốc hội.

Đảng lãnh đạo, trước hết là Đảng định ra đường lối cách mạng cho từng thời kỳ, trong 40 năm thời bình thì hoạch định đường lối đổi mới là vấn đề quan trọng hàng đầu. Việt Nam thành công và phát triển vì đường lối đổi mới đúng đắn. Trước tiên phải đổi mới nền kinh tế; khi nền kinh tế vững vàng, phát triển thì mới từng bước đổi mới hệ thống chính trị...

Nhìn lại hệ thống pháp luật Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận ra, tất cả các luật kinh tế đều được Quốc hội xây dựng, thông qua trong công cuộc đổi mới. Sự lãnh đạo của Đảng ngày càng cụ thể, rõ ràng, chi tiết và mục tiêu cần đạt đến. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu Quốc hội phải đổi mới tổ chức và hoạt động, trong đó lập pháp phải đạt mục tiêu Xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và ổn định. Và ngay bây giờ Quốc hội đang đổi mới tổ chức theo hướng tinh, gọn, nhẹ, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả.

Đảng lãnh đạo Quốc hội bao gồm cả hai mặt: lãnh đạo về nội dung gồm lãnh đạo lập hiến, lập pháp, lãnh đạo thực hiện giám sát tối cao và lãnh đạo quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; phương thức lãnh đạo gồm quy trình lãnh đạo, phương pháp lãnh đạo; lãnh đạo bằng nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo (ngay từ khi mới bắt đầu công cuộc đổi mới, tại kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa VIII, ngày 17/6/1987, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đã chỉ rõ, “Tất cả những những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định về mặt nhà nước phải được đưa ra Quốc hội, Hội đồng Nhà nước thật sự bàn bạc dân chủ trước khi có nghị quyết chính thức, tuyệt đối không được đặt cơ quan dân cử trước những việc đã được quyết định rồi, chỉ còn một cách là thụ động biểu quyết thông qua”(3). Điều đó cắt nghĩa, vì sao hoạt động của Quốc hội nói chung, quyết nghị các vấn đề quan trọng nói riêng ngày càng chính xác và có chất lượng cao.

Nói tóm lại: Quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối của Đảng, vì lợi ích của Nhân dân là nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành có chất lượng nhiệm vụ được Hiến pháp quy định. Việc đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội là cơ sở quan trọng để góp phần quan trọng ngày càng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Dân chủ hóa, từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động của Quốc hội

Cương lĩnh năm 1991 của Đảng (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định, “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.

Quốc hội đã và đang mở rộng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội. Dân chủ đã được Quốc hội thể chế hóa ngay từ khi Quốc hội mới ra đời. Một trong 3 nguyên tắc của Hiến pháp năm 1946 là, “Đảm bảo các quyền tự do dân chủ” và ngay Điều thứ nhất của Hiến pháp đã quy định, “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa”. Ngày nay là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thì tính chất dân chủ ngày càng được phát huy mạnh mẽ hơn.

Trong các cuộc thảo luận của Quốc hội, các ý kiến khác nhau
đều được trình bày công khai, minh bạch trước Quốc hội. Khuyến khích tranh luận và tranh luận lại, từ những ý kiến với các góc nhìn khác nhau mà tiếp cận toàn diện, sát với thực tiễn mà tìm ra phương án tối ưu cho mỗi vấn đề phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Quốc hội thảo luận tự do dân chủ nhưng phải tuân theo quy chế làm việc, tuân thủ Nội quy kỳ họp và theo sự điều hành của Chủ tọa. Bởi vậy mà dân chủ đi liền với kỷ luật, kỷ cương.

Quốc hội đã từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động của mình. Chuyên nghiệp hóa hoạt động của Quốc hội phụ thuộc vào hai yếu tố chủ yếu: một là, đại biểu chuyên nghiệp (hoạt động chuyên trách); hai là, công việc của Quốc hội phải mang đầy đủ tính chất chuyên môn nghiệp vụ chuyên lĩnh vực.

Trong đó yếu tố thứ hai đã được hiến định, “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều 69 Hiến pháp 2013).

Có thể nói, từ khóa XI đến nay, chất lượng hoạt động của Quốc hội ngày càng được nâng cao, một trong những nguyên nhân là, số lượng, tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách các nhiệm kỳ tăng lên liên tục: Khóa XI có 119 đại biểu (23,90% so với tổng số đại biểu; khóa XII 144 đại biểu (29,21%); Khóa XIII 155 đại biểu (31,00%); khóa XIV 167 đại biểu (33,80%); khóa XV 193 đại biểu (38,7%), nay giảm đi 21 đại biểu trong tổng số nên tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách khoa XV là 40.37%.

Dân chủ hóa, chuyên nghiệp hóa hoạt động của Quốc hội là một trong các nhân tố quan trọng để sử dụng tối đa khả năng, năng lực của đại biểu, góp phần nâng cao chất lượng mọi mặt hoạt động của Quốc hội.

Cơ cấu và chất lượng đại biểu quyết định chất lượng hoạt động của Quốc hội

Quốc hội khóa đầu trong điều kiện Cách mạng mới thành công, trình độ dân trí chưa cao thì cơ cấu thành phần đại biểu có phần nặng về tính đại diện cho các tầng lớp dân cư, vùng miền, công nhân, nông dân, binh sĩ, miền ngược miền xuôi, dân tộc, tôn giáo... Cũng với cơ cấu đại diện đó nhưng các khóa càng về sau càng chú trọng nâng cao chất lượng đại biểu để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Đến các khóa thuộc thế kỷ XXI thì tuyệt đại bộ phận đại biểu có trình độ đại học và trên đại học (Khóa XI 93,37% đại biểu có trình độ đại học và trên đại học; khóa XII 95,99%; khóa XIII 98,20%; Khóa XIV 98,78%; khóa XV 99,80%).

Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, do đó bất kỳ vấn đề nào, các đại biểu cũng phải đóng góp ý kiến, phải có chính kiến, vì vậy đại biểu có học vấn cao, đồng đều cũng là một yêu cầu thực tế. Đi đôi với việc nâng cao trình độ, trí tuệ thì rèn luyện bản lĩnh cũng là một yêu cầu cao đối với đại biểu Quốc hội. Bản lĩnh, nói cho cùng, đó là “7 dám” mà Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã chỉ rõ: dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung...

Nói tóm lại: Lựa chọn, giới thiệu, bầu cử cho được những đại biểu có chất lượng; tiếp tục bồi dưỡng mở rộng kiến thức, nâng tầm trí tuệ; rèn luyện bản lĩnh - tài đức vẹn toàn là điều kiện trực tiếp để tổ chức và hoạt động của Quốc hội có hiệu lực và hiệu quả.

Tổ chức bộ máy của Quốc hội hợp lý trong từng giai đoạn phù hợp với hoàn cảnh đất nước

Có thể nói, Quốc hội là cơ quan tiên phong trong việc tổ chức bộ máy tinh gọn theo phương châm: bộ máy gọn nhẹ, nhân lực tối thiểu, hiệu quả công việc tối đa.

Về tổ chức Ủy ban Thường vụ Quốc hội: theo Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội qua các thời kỳ, ngoài các chức danh Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội thì Quốc hội còn có các chức danh: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban. Vị thế và mức lương của Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cao hơn vị thế và mức lương của Chủ tịch Hội đồng Dân tộc và Chủ nhiệm các Ủy ban. Về số lượng thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trước đây có từ 23 - 26 thành viên, nhưng từ khóa IX đến nay chỉ còn từ 13 - 18 thành viên. Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại kiêm luôn Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban. Như hiện nay là đã giảm thêm 12 nhân sự cấp cao (tương đương Bộ trưởng) mà khối lượng công việc được giải quyết rất lớn.

Về các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ của Quốc hội: trên thế giới có 3 mô hình tổ chức số lượng các cơ quan của Nghị viện/Quốc hội: một là, số lượng các cơ quan của Nghị viện nhiều hơn số bộ của Nội các/Chính phủ; hai là, ngang bằng số bộ của Nội các; ba là, ít hơn số bộ của Nội các. Quốc hội Việt Nam thuộc mô hình thứ ba (từ khóa XII đến đầu khóa XV Quốc hội có 10 cơ quan so với 22 bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; hiện tại cuối khóa XV chỉ còn 8 cơ quan so với 17 bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ).

Tổ chức bộ máy của Quốc hội trước hết phải phù hợp với cấu trúc bộ máy chung của Nhà nước; tiếp đó là phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ cùng khối lượng công việc cụ thể của Quốc hội trong từng thời kỳ; và phải luôn luôn tuân thủ phương châm tinh, gọn, hiệu lực và hiệu quả.

Hoạt động của Quốc hội phải lấy dân làm gốc

Suy cho cùng, mọi hoạt động của Quốc hội đều nhằm giải quyết công việc của dân, phục vụ nhân dân. “Quy trình” tiến hành công việc là từ ý kiến, kiến nghị của dân gửi đến Quốc hội; Quốc hội phân loại, sắp xếp theo thời gian, xử lý xong (xây dựng thành luật, pháp lệnh; giám sát giải quyết sự việc; quyết định xong) thì những vấn đề đó trở lại với người dân để thực thi trong thực tiễn. Riêng pháp luật còn là “công cụ”, “thước đo” cho quản lý nhà nước.

Trong các nhiệm kỳ Quốc hội ở thế kỷ XXI, trước mỗi kỳ họp, Quốc hội thường tiếp nhận được từ 1.200 đến 1.500 ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước được tập hợp từ các Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, cá biệt, có kỳ họp số ý kiến, kiến nghị nhận được lên đến hơn hai nghìn. Gần đây nhất, cử tri có ý kiến, kiến nghị nhiều về đất đai, về thuế. Quốc hội đã lập chương trình, khẩn trương nghiên cứu, xem xét thông qua Luật Đất đai và nhiều luật về các sắc thuế...

Với ý nghĩa và thực tiễn đó, không có kinh nghiệm nào tốt bằng kinh nghiệm thực thi nghiêm chỉnh, triệt để quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội: “đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri...”. Tất cả các đại biểu Quốc hội có thường xuyên tiếp xúc cử tri, dành nhiều thời gian làm việc ở nơi cử tri bầu ra mình thì mới có đầy đủ tình hình cuộc sống thực tiễn để đem đến nghị trường những chất liệu tươi mới, thiết thực giúp ích cho Quốc hội. Đó chính là việc đưa ý chí, trí tuệ, nguyện vọng của Nhân dân đến diễn đàn Quốc hội, kết tinh vào các quyết sách của Quốc hội về lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước đối với Quốc hội.

(3) Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 48 (1987), trang 181, NXB CTQG, H. 2.006.

Ts. Bùi Ngọc Thanh - Nguyên Chủ nhiệm VPQH

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/quoc-hoi-thong-nhat-va-doi-moi-dau-an-10-nhiem-ky-bai-2-nhung-bai-hoc-kinh-nghiem-10401732.html