Quốc hội thống nhất và đổi mới - dấu ấn 10 nhiệm kỳ: Bài cuối: Không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng

Sự hình thành và phát triển của Quốc là một quá trình liên tục trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, có sự kế thừa và không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng.

Trong thời kỳ đất nước hòa nhập khu vực, hội nhập quốc tế sâu rộng thì phát huy thế mạnh của hoạt động đối ngoại là một lợi thế góp phần đem lại hiệu quả cao cho mọi hoạt động của Quốc hội.

Từ khi đất nước thống nhất đến nay, hoạt động đối ngoại của Quốc hội nằm trong tổng thể công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, được mở rộng và phát triển qua từng nhiệm kỳ. Đặc biệt là 5 khóa Quốc hội của thế kỷ XXI các Đoàn cấp cao Quốc hội Việt Nam đã đi thăm, làm việc với Nghị viện/Quốc hội ở hầu khắp các châu lục; hội đàm trực tuyến với Nghị viện một số nước; hội kiến trực tiếp với Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc. Quốc hội/Nghị viện nhiều nước anh em, bạn bè từ các châu lục cũng tới thăm, làm việc với Quốc hội Việt Nam. Cả hoạt động song phương và hoạt động đa phương, tất cả đều góp phần nâng cao Uy tín của Quốc hội và vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế.

Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với 100% đại biểu có mặt tán thành

Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với 100% đại biểu có mặt tán thành

Qua hoạt động đối ngoại, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chọn lọc, tiếp thu được những kinh nghiệm quý báu của Nghị viện/Quốc hội các nước, nhất là về kỹ thuật lập pháp, giám sát và kỹ năng tổ chức các hội nghị quốc tế. Các Đoàn cấp cao Nghị viện/Quốc hội các nước đã đánh giá cao tổ chức và kết quả hoạt động của Quốc hội Việt Nam. Trong đó phải kể đến đánh giá của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterrets khi ngài thăm và làm việc với Quốc hội Việt Nam khóa XV vào tháng 10-2022, “Việt Nam là một tấm gương vô cùng đặc biệt. Tất cả những nỗ lực mà Việt Nam đã thể hiện trong thời gian qua là một sự đột phá. Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào vì tiếng nói của các bạn được tất cả các quốc gia tôn trọng. Các bạn là tấm gương về sự thống nhất để mang lại lợi ích cho người dân”(4) .

Hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã từng bước làm tốt nhiệm vụ mà Hiến pháp năm 2013 đã quy định, Quốc hội Việt Nam đã có quan hệ với hơn 150 Nghị viện/Quốc hội các nước trên thế giới và là thành viên của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Hội đồng Liên Nghị viện ASEAN (AIPA), Hội đồng Nghị viện châu Á (APA) và nhiều tổ chức khác...

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội với các cơ quan hữu quan trong hoạt động của Quốc hội

Trong tất cả các kỳ họp, nhất là kỳ họp cuối năm, các cơ quan nhà nước (Chính phủ, các bộ ngành, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có phần việc trong Chương trình làm việc của Quốc hội. Các cơ quan khác, tùy nội dung kỳ họp mà có những phần việc rất quan trọng (xây dựng bộ máy nhà nước, công tác nhân sự, chuẩn bị bầu cử đại biểu dân cử...). Tất cả các nội dung đó có hoàn thành tốt đẹp thì chương trình kỳ họp mới hoàn tất, kỳ họp mới thành công mỹ mãn. Nội dung phối hợp công tác đã được quy định trong Hiến pháp, pháp luật và quy chế làm việc.

Thực thi nghiêm túc sự phối hợp giữa các cơ quan theo luật định, sự đồng thuận, đoàn kết thống nhất, cùng chung ý chí giữa Quốc hội với các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn bó chặt chẽ với nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, to lớn, là nhân tố, là một trong các điều kiện quan trọng để Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.

Nhiệm kỳ sau kế thừa thành tựu của các nhiệm kỳ trước

Sự hình thành và phát triển của Quốc là một quá trình liên tục trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, có sự kế thừa và không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng.

Quốc hội từ khóa VI đến khóa XV, về mặt cơ cấu tổ chức đã trải qua các mô hình khác nhau: Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa VI có tới 24 thành viên, trong đó có 2 thành viên dự khuyết; hầu như tất cả đều hoạt động kiêm nhiệm. Hai khóa VII và VIII, bộ máy nhà nước lại tổ chức theo mô hình Hội đồng Nhà nước (không có Ủy ban Thường vụ Quốc hội); Khóa XI, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ có 13 thành viên, các khóa sau đó là 17, 18 thành viên và tất cả đều hoạt động chuyên trách. Số lượng các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ của Quốc hội cũng trải qua 3 mô hình (6 cơ quan, 8 cơ quan và 10 cơ quan)...

Về khối lượng công việc thì ngày càng lớn. Về phương thức làm việc, tính dân chủ càng về sau càng được phát huy; từ chỗ chủ yếu là tỏ rõ chính kiến đến chỗ thảo luận kỹ lưỡng từng vấn đề, đến tranh luận và tranh luận lại, tìm ra phương án tối ưu cho mỗi vấn đề.

Song, kinh nghiệm đáng quan tâm là, kết quả và kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của khóa trước luôn luôn là bài học quý báu cho việc củng cố, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của khóa sau. Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Quốc hội phải được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ từ thử nghiệm đến đổi mới căn bản. Đổi mới phải có định hướng, mục tiêu, có bước đi vững chắc và đem lại hiệu quả thiết thực.

Về tổ chức cơ quan phục vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội

Văn phòng Quốc hội (VPQH) đã trải qua 4 danh xưng: Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội (1946 - 1960); Văn phòng Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1960 - 1981); Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước (1981-1992); VPQH (1992 đến nay). VPQH là cơ quan hành chính nhà nước, không có nhiệm kỳ như Quốc hội.

Trong thời kỳ chiến tranh (1946 - 1976), cơ quan phục vụ Quốc hội có nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ về hành chính, quản trị. Từ nhiệm kỳ khóa VI (1976 - 1981) đến nay nhiệm vụ phục vụ chủ yếu là chuyên môn, nghiệp vụ. Khối lượng công việc này ngày càng lớn và là công việc trọng tâm của VPQH.

Các tính chất hoạt động của Quốc hội có liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của VPQH và cũng chính là những kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của VPQH trong công cuộc đổi mới:

Hoạt động của Quốc hội là những hoạt động bao quát hoạt động của toàn xã hội (kinh tế, xã hội, chính trị, quốc phòng, an ninh, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, môi trường, đối ngoại...) bởi vậy VPQH phải có đầy đủ tổ chức, bộ máy, cán bộ để phục hoạt động của Quốc hội.

Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra, giám sát các hoạt động của hành pháp và tư pháp nên trình độ của cán bộ VPQH ở các lĩnh vực tương ứng phải sắc sảo, ít nhất là cao hơn một tầm so với cán bộ hành pháp, tư pháp thì việc phục vụ giám sát, thẩm tra mới đạt hiệu quả mong muốn.

Tổ chức bộ máy làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ của VPQH phải tinh, gọn, có sức mạnh đa năng mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Lãnh đạo các cấp phải giỏi cả chuyên môn, nghiệp vụ, giỏi cả tổ chức công việc và chỉ đạo điều hành tác nghiệp. Cán bộ, chuyên viên phải giỏi chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ. Tất cả đều phải nhiệt huyết với công việc.

Khối lượng công việc đồ sộ, mỗi công việc đều có độ phức tạp cao, tính cấp bách luôn thường trực... đòi hỏi toàn đội ngũ với tinh thần sẵn sàng làm việc trong mọi điều kiện.

Thật sự đoàn kết, quân, cán một lòng trên cơ sở thực thi tốt nhất nhiệm vụ chính trị của toàn cơ quan.

Điều kiện, phương tiện làm việc của Quốc hội phải ngày càng được cải thiện

Có 2 điều kiện vật chất quan trọng nhất. Một là, ngân sách hoạt động của Quốc hội: Phân chia một cách tương đối theo lát cắt thời gian, thì từ nhiệm kỳ khóa IX trở về trước, đại biểu Quốc hội chủ yếu là hoạt động kiêm nhiệm, nên hàng năm chỉ dự toán ngân sách chi tiêu cho các kỳ họp. Khóa IX cũng là nhiệm kỳ bắt đầu có nhiều đại biểu hoạt động chuyên trách, trước hết là hầu hết các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và một số Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Phó Chủ nhiệm một số Ủy ban. Từ khóa X đến nay, Quốc hội mới chính thức có ngân sách riêng để hoạt động. Kinh nghiệm là, ngân sách được cân đối đầy đủ thì mọi hoạt động được cũng được tiến hành đầy đủ và ngày càng sâu rộng, kể cả việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các Nghị viện/Quốc hội các nước trên thế giới.

Hai là, điều kiện vật chất kỹ thuật. Trước kia cả nước chỉ có một hội trường lớn - Hội trường Ba Đình. Các cuộc hội họp chung toàn quốc của các ngành, lĩnh vực đều sử dụng chung hội trường này; Quốc hội chưa có trụ sở riêng. Trên thế giới, Tòa Nghị viện/Quốc hội được coi là chốn uy nghiêm - nơi làm việc của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất... Tòa nhà Quốc hội Việt Nam hiện nay được khởi công vào tháng 9/2009, đưa vào sử dụng tháng 10/2014. Bên cạnh chất lượng hoạt động hiệu quả của Quốc hội thì bản thân Tòa nhà Quốc hội cũng góp phần làm tôn nghiêm vị thế của Quốc hội.

Cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiến bộ của công nghệ thông tin và điều kiện ngân sách cho phép, các đại biểu các khóa gần đây được cung cấp máy tính, các phương tiện thông tin điện tử chung và riêng, phương tiện làm việc được đổi mới... nên công việc của Quốc hội được xử lý nhanh chóng, chính xác, hiệu quả hơn so với nhiều khóa trước. Bài học kinh nghiệm ở đây như một phương trình. Nếu yếu tố con người như nhau thì “nâng cao hiệu quả công tác = nâng cao trình độ trang thiết bị làm việc tân tiến”. Rõ ràng rằng, chủ động đầy đủ về ngân sách, hiện đại hóa phương tiện làm việc có vai trò to lớn trong việc đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội.

Trong suốt quá trình hoạt động 80 năm qua, đặc biệt là 40 năm thống nhất và đổi mới, Quốc hội có rất nhiều bài học kinh nghiệm cần được tổng kết, đúc rút kỹ lưỡng hơn để các khóa Quốc hội nối tiếp tham khảo, học tập và phát triển trên một cấp độ cao hơn, hiện đại hơn trong kỷ nguyên mới.

Ts. Bùi Ngọc Thanh - Nguyên Chủ nhiệm VPQH

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/quoc-hoi-thong-nhat-va-doi-moi-dau-an-10-nhiem-ky-bai-cuoi-khong-ngung-doi-moi-de-dap-ung-yeu-cau-nhiem-vu-cua-moi-giai-doan-cach-mang-10401779.html