Quy định mới về tiêu chuẩn dân số và diện tích của tỉnh, thành phố, xã, phường

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn vừa ký ban hành nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính.

Với tỉnh, nghị quyết nêu rõ tiêu chuẩn quy mô dân số tỉnh miền núi từ 900.000 người trở lên; các tỉnh còn lại từ 1,4 triệu người trở lên.

Diện tích tự nhiên của tỉnh miền núi từ 8.000 km2 trở lên; các tỉnh khác từ 5.000 km2 trở lên.

Bên cạnh đó có định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của cả nước; có ít nhất 1 đô thị đạt tiêu chuẩn đô thị loại II.

Về tiêu chuẩn của xã, quy mô dân số xã miền núi từ 5.000 người trở lên; xã ở hải đảo từ 2.500 người trở lên; các xã còn lại từ 16.000 người trở lên.

Diện tích tự nhiên của xã miền núi từ 100 km2 trở lên; xã ở hải đảo từ 15 km2 trở lên; xã còn lại từ 30 km2 trở lên.

Ngoài ra có định hướng phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của tỉnh, thành phố.

Nghị quyết cũng quy định tiêu chuẩn của đơn vị hành chính nông thôn có yếu tố đặc thù. Cụ thể, tỉnh, xã có 50% dân số là người dân tộc thiểu số ở miền núi hoặc có đường biên giới quốc gia trên đất liền thì mức tối thiểu của tiêu chuẩn quy mô dân số bằng 50% mức quy định đối với tỉnh, xã tương ứng; cứ thêm 10% dân số là người dân tộc thiểu số thì được giảm thêm 5% mức quy định đối với tỉnh, xã tương ứng; các tiêu chuẩn khác thực hiện theo quy định tại Mục này.

Xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển được xác nhận theo quyết định của cấp có thẩm quyền thì mức tối thiểu của tiêu chuẩn quy mô dân số bằng 50% mức quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết này; các tiêu chuẩn khác thực hiện theo quy định tại Mục này.

Đối với vùng Đồng bằng sông Hồng, mức tối thiểu của tiêu chuẩn diện tích tự nhiên của tỉnh bằng 50% mức quy định, của xã bằng 70% mức quy định; các tiêu chuẩn khác thực hiện theo quy định tại Mục này.

Đơn vị hành chính nông thôn có nhiều yếu tố đặc thù thì mỗi tiêu chuẩn chỉ được áp dụng mức giảm tương ứng với một yếu tố đặc thù quy định như trên.

Trong khi đó, tiêu chuẩn của thành phố là quy mô dân số từ 2,5 triệu người trở lên. Diện tích tự nhiên từ 2.500 km2 trở lên. Tỷ lệ số phường trên tổng số đơn vị hành chính cấp xã từ 30% trở lên. Tỷ lệ đô thị hóa từ 45% trở lên.

Vị trí, chức năng được xác định trong quy hoạch hoặc định hướng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia hoặc cấp vùng về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y tế, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng hoặc cả nước. Cùng với đó đã được công nhận là đô thị loại I.

Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt các chỉ tiêu sau: Cân đối ngân sách thuộc nhóm các địa phương không nhận bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương; Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt từ 80% trở lên; Thu nhập bình quân đầu người trên năm cao hơn thu nhập bình quân đầu người trên năm của cả nước trong 03 năm gần nhất; Tốc độ tăng trưởng GRDP trong 03 năm gần nhất đạt hoặc vượt tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP); Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo của cả nước trong 03 năm gần nhất.

Đối với phường phải có quy mô dân số từ 21.000 người trở lên. Diện tích tự nhiên từ 5,5 km2 trở lên.

Vị trí, chức năng được xác định trong quy hoạch hoặc định hướng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành cấp vùng hoặc cấp tỉnh hoặc cấp tiểu vùng trong tỉnh, thành phố, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố hoặc tiểu vùng trong tỉnh, thành phố.

Tỷ lệ quy mô dân số đô thị trên quy mô dân số của đơn vị hành chính từ 50% trở lên.

Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt các chỉ tiêu sau: Tỷ lệ tổng thu ngân sách địa phương với tổng chi ngân sách địa phương trên địa bàn từ 100% trở lên; Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GRDP đạt từ 70% trở lên; Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên.

Ngoài ra có thu nhập bình quân đầu người trên năm cao hơn thu nhập bình quân đầu người trên năm của tỉnh, thành phố mà mình trực thuộc trong 3 năm gần nhất; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh, thành phố mà mình trực thuộc trong 3 năm gần nhất.

Nghị quyết cũng nêu rõ tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị có yếu tố đặc thù. Theo đó, đơn vị hành chính đô thị ở miền núi hoặc có đường biên giới quốc gia trên đất liền thì mức tối thiểu của tiêu chuẩn quy mô dân số bằng 50% mức quy định, mức tối thiểu của tiêu chuẩn cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội bằng 70% mức quy định đối với đơn vị hành chính đô thị tương ứng; các tiêu chuẩn khác thực hiện theo quy định tại Mục này.

Thành phố có một trong các yếu tố đặc thù sau đây thì mức tối thiểu của tiêu chuẩn quy mô dân số bằng 50% mức quy định tại khoản 1 Điều 4 của Nghị quyết này, mức tối thiểu của tiêu chuẩn tỷ lệ đô thị hóa bằng 70% mức quy định tại khoản 4 Điều 4 của Nghị quyết này; các tiêu chuẩn khác thực hiện theo quy định tại Mục này:

Có di sản văn hóa vật thể được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) công nhận; được xác định là trung tâm du lịch quốc tế trong quy hoạch, định hướng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt…

Trong khi đó, tiêu chuẩn của đặc khu thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 1 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Đặc khu đã được công nhận loại đô thị theo quy định tại Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân loại đô thị thì được xác định là đơn vị hành chính đô thị.

Bên cạnh đó, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng quy định về đề án thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính.

Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.

PV/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/chinh-tri/quy-dinh-moi-ve-tieu-chuan-dan-so-va-dien-tich-cua-tinh-thanh-pho-xa-phuong-post1258127.vov