Quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục đối với người khuyết tật phải gắn nhu cầu thực tế
Chiều 6/10, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ngô Thị Minh, Trưởng Ban Chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật và Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì tọa đàm tham vấn, xin ý kiến về một số nội dung chính của quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục đối với người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Tại tọa đàm, Thứ trưởng Ngô Thị Minh cho biết, theo kết quả điều tra quốc gia về người khuyết tật Việt Nam tính đến năm 2016, Việt Nam có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên, chiếm 7,06% dân số, trong đó, 663 nghìn trẻ em khuyết tật từ 2-17 tuổi. Vì vậy, bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng đối với người khuyết tật là chủ trương được Đảng và Nhà nước quan tâm. Chủ trương này thể hiện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp 2013, Luật Giáo dục 2019, Quyết định 1190/QĐ-TTg về Chương trình hỗ trợ người khuyết tật và đặc biệt là Luật Người Khuyết tật 2010 cùng một hệ thống văn bản quy định chính sách ưu tiên đối với người khuyết tật.
Ngành Giáo dục các địa phương phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành liên quan tham mưu tích cực UBND tỉnh, thành phố trong việc xây dựng kế hoạch và triển khai quy định, đề án để đào tạo nguồn nhân lực; tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị và công tác nghiên cứu giáo dục đặc biệt đối với học sinh khuyết tật.
Thứ trưởng nhấn mạnh, việc quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục đối với người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cần lắng nghe, tổng hợp ý kiến từ các chuyên gia. Trách nhiệm của các bộ, ngành cũng như các tổ chức chính trị - xã hội cần vào cuộc để góp ý hoàn thiện dự thảo. Dù khó nhưng khi xây dựng phải đảm bảo tính khả thi, thiết thực vì đây là nhóm đối tượng yếu thế. Quy hoạch phải gắn với nhu cầu thực tế và dự báo.
Chia sẻ về mục tiêu tổng quát của dự thảo quy hoạch, Giáo sư Lê Anh Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho biết, phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật và các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập trong hệ thống giáo dục quốc dân bảo đảm về cơ cấu, số lượng và chất lượng, theo hướng mở, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ giáo dục có chất lượng của người khuyết tật ở tất cả địa phương trong phạm vi cả nước, đặc biệt quan tâm đến vùng khó khăn.
Phát triển một số cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật làm nòng cốt cho các vùng để bảo đảm nhu cầu giáo dục đối với người khuyết tật mà các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập chưa đủ điều kiện đáp ứng. Chuyển đổi các cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật còn lại thành trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho rằng, về quan điểm phát triển của dự thảo là rất đúng theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. Dự thảo cần được xây dựng dựa trên xu thế của thế giới cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngành Giáo dục phải quản lý về mặt giáo dục đối với các cơ sở giáo dục chuyên biệt cho học sinh khuyết tật.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hải, Trưởng Khoa Giáo dục đặc biệt, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội cũng đánh giá cao sự chuẩn bị của nhóm biên soạn dự thảo. Ông đề nghị, khi lập quy hoạch hệ thống bên trong và bên ngoài, nhóm biên soạn cần tăng cường năng lực cho hệ thống sẵn có. Tuy nhiên, do không có biên chế vị trí việc làm nên các trường có thể đào tạo kết hợp bồi dưỡng cấp chứng chỉ cho giáo viên dạy học sinh khuyết tật.
Thầy Phạm Văn Hoan, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Xã Đàn (Đống Đa, Hà Nội) chia sẻ, giáo viên dạy giáo dục đặc biệt ở Hà Nội đa số là giáo viên văn hóa đi học lấy chứng chỉ về giáo dục đặc biệt ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Việc phân bổ các trung tâm, trường theo từng giai đoạn cần nghiên cứu thật kỹ lưỡng, đảm bảo tính thực tế, bởi các trường chuyên biệt đang rất thiếu về cơ sở vật chất.