Quy mô quá nhỏ bé, nhiều công ty dược Việt Nam bị thâu tóm

Trong ngành dược phẩm, doanh nghiệp Việt Nam phần lớn có quy mô nhỏ, sản xuất những sản phẩm gần giống nhau nên khó liên kết để tạo ra thương hiệu quốc gia cạnh tranh trên quy mô quốc tế.

Tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) 2025 với chủ đề “Khai phóng tiềm năng - Kiến tạo tương lai Việt” tổ chức trong 2 ngày 15 và 16-9, nhiều quan điểm liên quan đến quản trị doanh nghiệp và phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa được nêu ra.

Sự kiện thu hút hơn 1.500 doanh nhân, chuyên gia và tổ chức quốc tế, cùng tham gia 4 phiên đối thoại chuyên đề: Thể chế kiến tạo - Doanh nghiệp vươn mình; Khoa học công nghệ - Đổi mới sáng tạo - Sức bật để vươn mình; Mài sắc các mũi nhọn chiến lược - Vươn tầm quốc tế và Vươn tầm nội lực để vươn mình đột phá.

 Bà Bùi Cẩm Vân – giám đốc khối quản trị doanh nghiệp BuyMed. Ảnh: NGỌC DIỆP

Bà Bùi Cẩm Vân – giám đốc khối quản trị doanh nghiệp BuyMed. Ảnh: NGỌC DIỆP

Sự phân mảnh quá mức ngăn cản doanh nghiệp phát triển lớn mạnh

Đề cập đến những yếu tố kìm hãm sự phát triển của ngành dược phẩm Việt Nam, bà Bùi Cẩm Vân- Giám đốc khối quản trị doanh nghiệp BuyMed- nhấn mạnh việc doanh nghiệp vận hành dựa trên tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất của doanh nghiệp có thể là vốn, có thể là đất đai, có thể là con người.

Cũng theo bà Vân, ở thời điểm hiện tại, tư liệu sản xuất của doanh nghiệp đã phát triển thành thế hệ tư liệu sản xuất mới là dữ liệu, công nghệ. Nếu những tư liệu sản xuất này bị độc quyền hoặc phân mảnh sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho những doanh nghiệp trẻ, doanh nghiệp mới khởi nghiệp.

Doanh nghiệp thực sự cần đến tư liệu sản xuất mạnh để có thể cạnh tranh. Cạnh tranh sẽ tạo ra áp lực để cải tiến và chỉ có áp lực để cải tiến mới tạo ra tăng trưởng.

Thống kê của ITV cho thấy năm 2024, quy mô thị trường dược của Việt Nam đã đạt đến gần 8,9 tỉ USD, đứng thứ hai khu vực Đông Nam Á.

Tuy nhiên, có nghịch lý là 10 công ty dược lớn nhất của Việt Nam vẫn có quy mô nhỏ hơn một công ty dược tên là FMA của Indonesia.

Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến thực trạng này do ngành dược ở Việt Nam rất phân mảnh. Hiện tại, Việt Nam có khoảng 250 nhà máy sản xuất dược nhưng đều sản xuất những sản phẩm khá giống nhau, vì vậy không có sự khác biệt, đột phá. Sự liên kết của các doanh nghiệp ngành dược nội địa không cao.

Thứ hai, sản phẩm mới của các doanh nghiệp dược không nhiều và biên lợi nhuận rất mỏng.

Cuối cùng là tư duy bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp cho rằng họ làm tốt ở trong nước là an toàn rồi, bảo vệ những cái hiện có mà không có tư duy, định hướng muốn cạnh tranh nhiều hơn, muốn khám phá nhiều hơn, muốn đổi mới nhiều hơn.

Ba yếu tố trên là những điểm hạn chế nếu xét trên tầm quy mô quốc gia, bởi doanh nghiệp quá nhỏ sẽ không có lợi thế cạnh tranh, họ không thể đàm phán với những công ty dược ở nước ngoài để mang về những sản phẩm mới. Trong hoàn cảnh đó, chính người tiêu dùng trong nước đã và đang bị thiệt hại vì không có nhiều lựa chọn thay thế khi chữa bệnh.

Khi không có doanh nghiệp dược đủ lớn cũng sẽ không có doanh nghiệp dẫn dắt để tích lũy R&D, vì vậy thị trường nội địa sẽ mãi phụ thuộc vào thuốc ngoại.

Ngoài ra, khi doanh nghiệp dược nội địa không liên kết mạnh mẽ với nhau, sẽ khó tạo ra những thương hiệu dược tầm quốc gia để cạnh tranh với thương hiệu dược lớn của các quốc gia khác để xuất khẩu ra nước ngoài.

Không chỉ vậy, khi mãi tồn tại ở quy mô quá bé và hoạt động chỉ trong nội địa, nhiều doanh nghiệp dược Việt Nam đã bị doanh nghiệp lớn nước ngoài thâu tóm. Ví dụ như trường hợp DHG về tay tập đoàn Taisho (Nhật), Imexpharm bị tập đoàn Lizvon – Trung Quốc thâu tóm, còn doanh nghiệp DBD có cổ đông KWE Thụy Sỹ. Doanh nghiệp dược nội đang mất vị thế ngay trên sân nhà.

Cũng theo bà Vân, câu chuyện của doanh nghiệp ngành dược phẩm có thể cũng là câu chuyện chung của nhiều doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều ngành nghề khác.

Nền tảng khai phóng tiềm năng của kinh tế tư nhân

Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, Tổng Giám đốc Tập đoàn Phúc Khang Lưu Thanh Mẫu, cho biết muốn khai phóng tiềm năng của kinh tế tư nhân, việc xây dựng một thể chế kiến tạo, minh bạch và ổn định là yếu tố tiên quyết.

Có ý kiến cho rằng còn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, các vấn đề về pháp lý đối với tài sản số, dữ liệu và các sản phẩm trí tuệ chưa được định danh rõ ràng trong Bộ luật Dân sự, tạo khoảng trống pháp lý.

Chính sách về chuyển đổi xanh, đô thị xanh, công trình xanh còn thiếu tính cụ thể và công cụ đánh giá chuẩn. Tuy vậy, nhiều nội dung vượt thẩm quyền của địa phương, cần được giải quyết ở cấp Bộ, ngành.

Theo Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, để hiện thực hóa một thể chế kiến tạo giúp doanh nghiệp vươn mình, một loạt sáng kiến cải cách được đề xuất, bắt đầu từ cấp độ hoạch định chính sách cao nhất.

Theo Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI - ông Đậu Anh Tuấn, để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một thể chế kiến tạo phát triển, thực hiện tốt Nghị quyết 68-NQ/TW, điều kiện tiên quyết là phải làm rõ và hạn chế triệt để tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự thuần túy.

Theo kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, giải pháp cốt lõi nằm ở việc cải cách hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự theo hướng phân định rạch ròi giữa trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, hành chính, đồng thời thiết lập các cơ chế hỗ trợ pháp lý linh hoạt, chủ động và kịp thời.

NGỌC DIỆP

Nguồn PLO: https://plo.vn/quy-mo-qua-nho-be-nhieu-cong-ty-duoc-viet-nam-bi-thau-tom-post870526.html