Rà soát, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Thảo luận tại Tổ 14 về dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh, Hà Tĩnh và An Giang đề nghị rà soát nhằm bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định trong dự thảo Luật và giữa dự thảo Luật với hệ thống pháp luật hiện hành.
Quan tâm đến quy định về bảo mật, công khai thông tin người nộp thuế ở khoản 1 Điều 7 dự thảo Luật, ĐBQH Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) cho rằng, quy định này cơ bản xác định trách nhiệm bảo mật thông tin người nộp thuế nhưng chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

ĐBQH Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) phát biểu
Cụ thể, dự thảo Luật chưa làm rõ nghĩa vụ của cơ quan quản lý thuế trong việc bảo đảm an toàn dữ liệu cá nhân, an ninh hệ thống thông tin và kết nối tích hợp với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khi người nộp thuế thực hiện kê khai, nộp thuế và sử dụng dịch vụ thuế điện tử.
Bên cạnh đó, theo Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng, Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, trách nhiệm quản lý, lưu trữ và xử lý dữ liệu cá nhân phải tuân thủ các nguyên tắc về bảo vệ quyền riêng tư, bí mật thông tin và an toàn hệ thống.
Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đại biểu Trần Đình Gia đề nghị bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan thuế trong xây dựng, vận hành hệ thống công nghệ thông tin, bảo đảm tiêu chuẩn bảo mật, an toàn dữ liệu cá nhân. Đồng thời, thiết lập cơ chế kiểm soát, giám sát và ứng phó sự cố an ninh mạng trong quá trình thu thập, chia sẻ dữ liệu người nộp thuế.
Về nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính quản lý thuế, tại điểm c, khoản 3, Điều 44 dự thảo Luật quy định phạt từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn đối với hành vi quy định tại khoản 4 Điều 45 của luật này.
Trong khi đó, khoản 7 Điều 44 dự thảo Luật quy định “đối với hành vi trốn thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền được miễn, giảm, hoàn thuế không thu thì thời hiệu xử phạt là 5 năm, thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính thực hiện theo quy định của Chính phủ”.

Quang cảnh thảo luận Tổ 14
Theo đại biểu Trần Đình Gia, các quy định nêu trên chưa có sự thống nhất và thiếu rõ ràng trong việc phân biệt các hành vi vi phạm, đặc biệt là giữa hành vi trốn thuế đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và hành vi trốn thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp.
Cũng theo đại biểu, dự thảo Luật chưa đưa ra được tiêu chí phân loại đầy đủ dựa trên mức độ lỗi cố ý hay không cố ý; mức độ vi phạm và hậu quả pháp lý, dẫn đến khó khăn trong việc xác định mức xử phạt tương ứng. "Điều này có thể dẫn tới cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các cơ quan quản lý thuế, ảnh hưởng đến tính minh bạch, thống nhất và công bằng trong xử lý vi phạm hành chính về thuế".
Do đó, đại biểu Trần Đình Gia đề nghị nghiên cứu hoàn thiện quy định theo hướng mô tả rõ ràng tiêu chí xác định mức độ vi phạm, cụ thể: phân biệt hành vi trốn thuế đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và hành vi chưa đến mức truy cứu hình sự; làm rõ yếu tố lỗi cố ý và lỗi vô ý; và xác định mức phạt tương ứng với từng mức độ vi phạm.
Đồng thời, cần rà soát sự thống nhất với các quy định của Bộ luật Hình sự liên quan đến tội trốn thuế để tránh chồng chéo, bảo đảm tính logic, minh bạch và khả thi khi áp dụng.
Về phân nhóm người nộp thuế trong quản lý thuế, tại Điều 3 dự thảo Luật quy định cơ quan quản lý thuế thực hiện phân nhóm người nộp thuế theo các tiêu chí quản lý rủi ro, quản lý tuân thủ và chức năng quản lý thu thuế. Tại Điều 5 dự thảo Luật quy định nội dung quản lý thuế cũng đề cập đến nội dung: cơ quan thuế thực hiện quản lý thuế theo phân nhóm người nộp thuế.

ĐBQH Nguyễn Thị Thu Hà (Quảng Ninh) phát biểu
Chỉ ra sự trùng lặp trong các quy định trên, ĐBQH Nguyễn Thị Thu Hà (Quảng Ninh) đề nghị, cần rà soát nhằm bảo đảm thống nhất về phân nhóm nộp thuế tại Điều 3 và Điều 5 dự thảo Luật.














