Ra thăm cửa bể
Ra đến cửa bể rồi, mới ngẫm nghĩ, sao tận đến mùa Xuân năm nay, mình mới có dịp đến đây nhỉ, cái nơi đáng ra là phải rất thân thuộc với mình? Đấy là cửa bể Ba Lạt, nơi con sông Hồng đổ nước vào biển Đông. Đời người xuôi ngượ làm báo, đã từng đi khắp đó đây trong nước và ngoài nước, vậy mà bây giờ mới đến. Hóa ra, nơi nào cứ nghĩ là gần, thế nào rồi cũng đến, là lại thành xa xôi…
Sông Hồng thân thuộc với mọi người ở miền Bắc, ở đồng bằng Bắc bộ, ở Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam… giống như tôi quê ở Thái Bình thôi. Ngay từ bé tuổi, theo cha lang bạt, cứ khi nào xe ôtô lên được phà Tân Đệ qua ngang con sông Hồng mênh mông, là cha nói: “Ta đã rời quê rồi đấy con ạ!”. Đi mãi, đi mãi, cuối cùng tôi lại về Hà Nội, là vẫn sống bên sông Hồng.
Tôi đã đến nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt ở A Mú Sung, Lào Cai, những năm còn trẻ lắm. Hồi ấy, biên giới phía Bắc đang nóng bỏng. Thời bài hát “Gửi em ở cuối sông Hồng” lính trên chốt rất hay hát. Từ hồi đấy đã nghĩ, nay mai về xuôi, sẽ tìm đến cửa sông Hồng, nhìn cuối sông ở đấy, ngắm em ở đấy, xem có đúng như mình hình dung khi nghe và hát bài hát này ở biên giới không?
Tôi cũng đã lên Mường Tè, Lai Châu, nơi con sông Đà chảy vào đất Việt. Đã đến Thanh Thủy, Hà Giang, nơi con sông Lô chảy vào đất Việt. Sông Đà và sông Lô là hai phụ lưu, cùng với sông Thao dòng chính làm nên sông Hồng. Ba con sông này gặp nhau ở ngã ba Bạch Hạc, Việt Trì, nơi kinh đô cổ nhất nước Việt thời các Vua Hùng, để từ đó gọi là sông Hồng. Ngoài ba dòng chính, nước của dòng sông Hồng còn nhận từ khắp các phụ lưu, rồi lại phân lưu chia ra. Tính hết cả mạng lưới, sông này bao bọc gần như khắp đồng bằng Bắc bộ nước ta, có đến hơn 40 dòng chảy, mang đủ những quán từ như sông, ngòi, suối, nậm, huổi… đứng trước. Những sông Đuống, sông Gâm, sông Chảy, sông Châu, Phó Đáy… Những ngòi Thia, ngòi Hút, ngòi Lao… Những suối Ba Ta, Pa Ma, Nà Thầy… Những nậm La, nậm Ngần… Những huổi Hô, huổi Luông… Đấy đã là những địa danh quen thuộc với bao nhiêu lớp người vì đã trập trùng bước vào những trang văn đầy cảm xúc của thời kháng chiến hào hùng, gian khó.
Hát rằng, anh ở biên cương nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt, là chỗ Lào Cai ấy, nhưng tên sông từ Lào Cai về tới ngã ba Bạch Hạc, Việt Trì, lại mang tên là sông Thao. Tính từ điểm đầu biên giới theo hướng Tây Bắc, Đông Nam đến cuối sông Hồng ra biển cả, dài hơn 500 cây số. Một đoạn đường đi từ rừng đến biển, cũng không quá xa xôi…
Sông Hồng gắn với lịch sử hình thành và phát triển nước Việt mấy nghìn năm. Nhưng cửa Ba Lạt thì mới định hình hơn 300 năm nay, từ trận lụt lịch sử 1787, nước lũ phá tan cửa sông Ba Lạt nhỏ bé, gọi là sự kiện “Ba Lạt phá hội”, mở toang nó ra, phế truất hai cửa cũ là cửa Lân và cửa Hà Lạn của sông Ngô Đồng, để làm nên cái cửa bể mới, phóng khoáng và mênh mông hơn rất nhiều lần.
Ngồi bên cửa bể, nhìn nước sông mênh mông sóng đỏ, thấy mỗi một tặc lưỡi của mình là đã có khoảng 1.000 mét khối nước phù sa hòa vào biển cả. Người ta đã tính, lưu lượng nước sông Hồng nơi cửa bể, cao nhất đến 30.000 m3/giây vào mùa lũ, thấp nhất thì độ 700 m3/ giây vào mùa cạn. Nhìn ngược lên thượng nguồn mà tưởng tượng, ở độ cao hơn 70 mét so với nơi mình đang đứng, nước cứ cần mẫn đổ xuống, tràn qua bao nhiêu thác, bao nhiêu gềnh, bào gột đi bao nhiêu cát đá, phù sa, mấy ngàn năm mà thành đồng bằng Bắc bộ mênh mông. Cứ liên tưởng, rồi thấy, những gì mình đã làm, đã đóng góp suốt cả đời mình cho đời sống này, thật đúng là chưa đáng một phần của hạt cát mà sông Hồng mang từ nơi non cao về bồi tụ cho đồng bằng. Ngồi thưởng thức cua, mực tươi ròng vừa bắt nơi cửa sông lên, nhấp chén rượu nếp cái từ mùa màng châu thổ, mà thấy đấy là ân sủng lớn lao trời đất ban cho mình…
Sông Hồng đã trằn mình trôi qua thời gian và lịch sử. Chế Lan Viên thốt lên: “Hỡi sông Hồng, tiếng hát bốn ngàn năm/ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”. Bao người người lớp lớp kinh qua lửa máu để Văn Cao viết “Trường ca Sông Lô”, Đỗ Nhuận viết “Du kích sông Thao”. Những ngày kháng chiến chống Pháp, Hoàng Cầm đã chỉ ra nguồn cội sức mạnh từ sự trữ tình sông Đuống “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ”. Sông Đuống có tên chữ là Thiên Đức, do người Việt khơi mở từ thời vua Lý Công Uẩn, nối sông Hồng với Lục đầu giang, vừa làm thủy lợi vừa chia bớt nước của những lũ cơn thịnh nộ xối thẳng vào kinh thành Thăng Long. Trong yên ả, Nguyễn Tuân vẫn thấy sóng vỗ nơi mặt nước xanh màu ngọc bích mà thành tùy bút “Người lái đò trên sông Đà”. Đấy chỉ là một vài trong những ấn tượng trong văn nghệ của sông Hồng cùng các chi lưu, phân lưu trong thời nước Việt Nam mới. Còn nhiều lắm những trang văn, trang sử, ca dao, dân ca trong quá khứ nữa…
Sông Hồng không chỉ bồi tụ nên địa lý, mà còn là ngọn nguồn những sức mạnh không dễ gì cắt nghĩa hết được của những người dân áo vải nơi xứ sở này. Hôm đến cửa bể Ba Lạt, khi sải những bước chân trên thềm phù sa non còn đang ấm nóng, tôi đứng lại, nhìn lên bầu trời. Bầu trời đang xanh ngắt trên sóng đỏ sông Hồng. Bầu trời ấy thật hiền hòa, nhẹ bẫng những đám mây bay về xa…
Không phải lúc nào, trời trên sông Hồng cũng xanh trong, yên ả. Bầu trời ấy ngút khói và nhoáng lửa khi Hà Nội bước vào kháng chiến chín năm chống Pháp, đoàn quân cảm tử lặng lẽ rời Thủ đô qua gầm cầu Long Biên. Bầu trời ấy gầm rú tiếng máy bay Mỹ, Long Biên bị trúng bom sập mất mấy nhịp cắt đứt giao thông, phải nối lại qua cầu phao bắc vội.
Bây giờ, bầu trời trên sông Hồng xanh lại đã mấy chục năm rồi. Sông Hồng mấy ngàn năm chảy mãi, giờ cũng có vẻ mệt mỏi và già yếu đi. Nhìn sông Hồng đi qua Hà Nội mà nghĩ xem, có đúng thế không? Hà Nội có sông Hồng nhưng chưa mấy ai thấy thú vị vì mình đang sống ở thành phố bên con sông lịch sử. Chúng ta đang nợ sông Hồng món nợ rất lớn. Sông Hồng bao giờ mới trẻ lại, đẹp lên, sung sức hơn, có ích hơn cho đời bây giờ và tương lai? Không phải chưa có người đặt ra những câu hỏi này, nhưng câu trả lời thật ý nghĩa thì vẫn chưa có.
Câu trả lời ấy dứt khoát phải có trong thời hôm nay của chúng ta. Trời xanh trên sóng đỏ sông Hồng đã mấy chục năm nay, vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi…
Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/ra-tham-cua-be-131749.html