Rau sau sau
Ngọn rau sau sau chứa nhiều chất tannin nên có vị chát thơm gần giống quả trám trắng. Khi chấm ngọn sau sau với sốt mẻ, vị chát của lá hòa quyện với vị chua chua của mẻ, ngầy ngậy của thịt hộp thành một món ăn vô cùng thú vị.
Cứ mỗi khi Xuân về, cây sau sau – loài cây thân gỗ có lá gần giống với lá phong xứ ôn đới lại đâm chồi nảy lộc. Người Lạng Sơn hái những chồi non này về rửa sạch và ăn chấm với mẻ om. Món chấm này cũng thật đặc biệt, mẻ được lọc kỹ cho ra nước trắng đục sánh, cà chua chưng lên rồi đổ lẫn mẻ và một chút thịt hộp, nêm mắm muối gia vị vừa miệng thế là đã có một bát mẻ chưng thơm lừng. Ngọn sau sau chứa nhiều chất tannin nên có vị chát thơm gần giống quả trám trắng. Khi chấm ngọn sau sau với sốt mẻ, vị chát của lá hòa quyện với vị chua chua của mẻ, ngầy ngậy của thịt hộp thành một món ăn vô cùng thú vị.
Dịp Tết Nguyên đán và mùa lễ hội, bên cạnh những món ăn quen thuộc như bánh chưng, thịt gà, măng, hành… thì món rau sau sau đã trở thành món “rau sống” không thể thiếu trong mâm cỗ của người dân xứ Lạng.
Cây sau sau còn có nhiều tên gọi khác như sau trắng, phong hương, bạch giao hương, cây thau, sâu trắng, cổ yếm, mạy sâu (Tày), pùm múa đẻng (Dao), chà phai (Mường). Cây sau sau phân bố ở Nam Trung Quốc và ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hòa Bình...
Theo y học cổ truyền, quả sau sau có vị đắng, tính bình, mùi thơm; tác dụng khứ phong, hoạt lạc, lợi thủy thông kinh. Lá sau sau có vị đắng, tính bình; tác dụng thanh nhiệt giải độc, thu liễm chỉ huyết. Nhựa có vị ngọt, cay, tính ấm; tác dụng thông khiếu, khai uất, khứ đàm, hoạt huyết giảm đau. Rễ vị đắng tính ấm; tác dụng khư thấp, chỉ thống.
Quả có tác dụng khứ phong, hoạt lạc, lợi thủy thông kinh; chữa phong thấp, đau nhức khớp xương, tâm vị đau trướng, thủy thũng, đái khó, mề đay, viêm da, chàm. Lá có tác dụng thanh nhiệt giải độc, chữa viêm ruột, đau vùng thượng vị, thổ huyết, chảy máu cam, dùng ngoài trị mẩn ngứa, eczema.
Nhựa có tác dụng thông khiếu, khai uất, khứ đàm, hoạt huyết giảm đau; trị ho có đờm, kinh giản, thổ huyết, nôn ra máu, chảy máu cam. Rễ có tác dụng khứ thấp, chỉ thống; chữa thấp khớp, đau răng.
Nguồn Đại Đoàn Kết: http://daidoanket.vn/rau-sau-sau-557225.html