Rủi ro nợ xấu 'phình to'

Cùng với đà tăng trưởng tín dụng tích cực, tỷ lệ nợ xấu của nhiều ngân hàng cũng tăng mạnh. Do đó, cần kiểm soát chặt chất lượng tín dụng, tính minh bạch trong giải ngân nguồn vốn của các ngân hàng và chú trọng xử lý nợ xấu.

Nợ xấu nhiều ngân hàng vượt trần

Theo thống kê tổng giá trị nợ xấu tính đến cuối tháng 6/2025 của 28 ngân hàng đạt mức 294.215 tỷ đồng, tăng hơn 12% so với đầu năm. Không chỉ tăng về quy mô, cơ cấu nợ xấu cũng cho thấy xu hướng xấu đi. Nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) tăng mạnh nhất với 26,9%, tiếp theo là nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng 22%, và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) tăng 10,5%, hiện chiếm gần 55% tổng nợ xấu. Đây là dấu hiệu cho thấy một phần nợ xấu mới phát sinh đã nhanh chóng dịch chuyển sang nhóm rủi ro cao nhất.

Nợ xấu có xu hướng tăng. Ảnh minh họa

Nợ xấu có xu hướng tăng. Ảnh minh họa

Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm số dư nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) của toàn ngành ngân hàng đã tăng hơn 16% so với cuối năm 2024, đạt 267.329 tỷ đồng - đây là mức cao kỷ lục.

Mặc dù nợ xấu có xu hướng tăng, song nhiều ngân hàng lại giảm trích lập dự phòng rủi ro nhằm hạn chế ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận trong 6 tháng đầu năm 2025, khiến “bộ đệm” dự phòng rủi ro mỏng dần. Số dư dự phòng rủi ro của các ngân hàng đạt 213.393 tỷ đồng, chỉ tăng 3,2%.

Nhóm ngân hàng có tốc độ tăng nợ xấu mạnh nhất là: PGBank tăng 0,76% so với đầu năm; BVBank tăng 0,74%; Saigonbank tăng 0,55%...

Tỷ lệ nợ xấu được khuyến nghị dưới 3% là ngưỡng an toàn. Tính đến 30/6/2025, nhóm ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% gồm: Saigonbank (3,21%), BaoVietBank (3,70%), BVBank (3,83%)...

Những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu vượt trần danh mục tín dụng tập trung vào các lĩnh vực rủi ro.

Đơn cử, PGBanktrong hoạt động tín dụng, bất động sản và xây dựng là hai mảng được PGBank “rót vốn” khá nhiều. Tổng dư nợ tín dụng hai mảng này cuối quý II/2025 là 10.632 tỷ đồng, chiếm 23,4% tổng cho vay khách hàng.

Kiểm soát dòng tiền

TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh cho rằng, giải ngân vốn tín dụng nhiều mà nợ xấu tăng mạnh là điểm đáng lưu tâm, đặc biệt một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% - ngưỡng cảnh báo về tính an toàn. Trước đó, nợ xấu đã có dấu hiệu tăng từ quý I/2025 do Thông tư 02/2023/NHNN-TT về cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn hết hiệu lực, buộc các ngân hàng phải chuyển nhóm nợ về đúng bản chất. Đến nay, cùng với việc các khoản nợ xấu bộc lộ, tình hình sản xuất, kinh doanh của nhiều DN vẫn còn khó khăn. Mặt khác, thị trường bất động sản có chuyển biến tích cực nhưng không đồng đều cũng khiến nhiều khoản nợ trong lĩnh vực này biến thành nợ xấu.

Theo ông Huân, việc tiếp tục đẩy mạnh tín dụng vào nền kinh tế là cần thiết để hỗ trợ DN phục hồi sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng trả nợ, qua đó góp phần giảm nợ xấu. Tuy nhiên, cần lưu ý việc phân bổ hạn mức tín dụng với từng ngân hàng và kiểm soát chặt chất lượng dòng tín dụng, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản có xu hướng nóng lên ở một số phân khúc, dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản của một số ngân hàng tăng và chiếm tỷ trọng lớn.

Từ đầu năm đến nay, nhiều ngân hàng liên tục rao bán nợ xấu hàng trăm tỷ đồng với tài sản đảm bảo là cổ phiếu, bất động sản… MBS dự báo, nửa cuối 2025, các ngân hàng sẽ buộc phải tiếp tục trích lập dự phòng ở mức cao, nhằm kiểm soát tỷ lệ nợ xấu khi tín dụng bán lẻ mở rộng. Việc duy trì trích lập dự phòng thận trọng cũng là điều kiện cần để bảo vệ NIM trong bối cảnh chi phí vốn chưa giảm mạnh.

NHNN từ đầu năm đã nới hạn mức tăng trưởng tín dụng cho nhiều ngân hàng, nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Đến ngày 8/8/2025, tín dụng toàn hệ thống tăng 10,28% so với đầu năm, cao hơn nhiều so với 5,84% cùng kỳ 2024. Dự báo cả năm, tín dụng có thể đạt 17–18%.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao đi kèm rủi ro chất lượng. Khi nhiều ngân hàng mở rộng mạnh mảng bán lẻ, cho vay tiêu dùng và bất động sản, áp lực nợ xấu trong trung hạn vẫn hiện hữu. MBS cảnh báo, nếu tăng trưởng tín dụng không đi kèm với kiểm soát rủi ro chặt chẽ, tỷ lệ nợ nhóm 2 có thể quay đầu tăng, tạo áp lực lên nợ xấu trong năm 2026.

Trong khi đó, chuyên gia Yuanta Việt Nam kỳ vọng, chất lượng tài sản ngành ngân hàng sẽ cải thiện từ nửa cuối năm 2025, nhờ sự phục hồi dần của thị trường bất động sản. Các chính sách thúc đẩy đầu tư công, tháo gỡ vướng mắc pháp lý và việc sáp nhập địa giới hành chính sẽ hỗ trợ tích cực cho thị trường bất động sản, giúp giảm áp lực nợ xấu và gánh nặng trích lập dự phòng cho các ngân hàng. Đồng quan điểm, SSI dự báo, các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tài sản ngành ngân hàng sẽ dần được cải thiện trong môi trường lãi suất được duy trì ở mức thấp, cùng với các phương án hỗ trợ và cơ cấu nợ cho khách hàng từ phía ngân hàng.

Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng hiệu quả sẽ phụ thuộc vào việc triển khai thực tế và sự hợp tác của các bên liên quan.

Tăng trưởng tín dụng cao cũng có nguy cơ khiến dòng vốn “chảy lệch”. Nếu không kiểm soát chặt đường đi của dòng vốn, tiền có thể chảy vào những lĩnh vực rủi ro cao, kéo theo hàng loạt hệ lụy. Trường hợp chủ DN sở hữu chéo ngân hàng cũng có thể khiến dòng tiền bị “lệch đường” nếu thiếu giám sát. (TS Nguyễn Đức Độ - Học viện Tài chính)

Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2025 sẽ góp phần giúp quá trình xử lý nợ xấu diễn ra thuận lợi hơn, kỳ vọng làm giảm nợ xấu trong thời gian tới. Ở khía cạnh khác, cần đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu và tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém. Cần thực hiện đồng thời các giải pháp từ điều tiết và kiểm soát vốn tín dụng trong nền kinh tế, khẩn trương xử lý nợ xấu và tiếp tục tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém để tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng lành mạnh. (TS. Nguyễn Hữu Huân- Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh)

Thảo Nguyên

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/rui-ro-no-xau-phinh-to.821666.html