'Rừng' giấy phép và lời than 'làm kinh doanh không còn thấy niềm vui'

Một nữ doanh nhân gần đây liên hệ với tôi than phiền việc kinh doanh của chị đang gặp vô vàn khó khăn, phần vì các đơn hàng suy giảm, phần vì thêm nhiều thủ tục hành chính, rào cản về thuế, các quy chuẩn mới rất khó vượt qua.

“Làm kinh doanh giờ khó quá, chúng tôi không còn thấy niềm vui nữa”, chị than thở.

Vị doanh nhân này không muốn trả lời phỏng vấn vì e ngại việc kinh doanh bị ảnh hưởng. Chị cũng bày tỏ hy vọng, nếu môi trường kinh doanh được cải thiện, như yêu cầu của các lãnh đạo đất nước, thì sẽ tạo nhiều điều kiện và động lực mới cho giới doanh nhân.

Mong muốn này chắc chắn đại diện cho nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam, nhất là sau hàng loạt các hội nghị của Thủ tướng với giới doanh nhân gần đây.

Sau nhiều nỗ lực cắt giảm điều kiện kinh doanh, số điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn, quy chuẩn vẫn lên tới gần 16.000. Tất nhiên, nhiều trong số đó là cần thiết để phục vụ quản lý nhà nước vì lợi ích cộng đồng, không thể bỏ được.

Vấn đề là trong số đó có thể có hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn ngành nghề kinh doanh có điều kiện và hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh tương ứng, tạo nên những “sa mạc” rào cản đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Ví dụ, trong lĩnh vực xăng dầu, thời hạn của các loại giấy phép kinh doanh xăng dầu thường là 5 năm, theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Để được cấp giấy phép kinh doanh xăng dầu, tùy loại giấy phép, doanh nghiệp sẽ phải đầu tư cầu cảng, kho xăng dầu, phương tiện vận tải, cửa hàng bán lẻ…

Các loại tài sản này thường có thời gian khấu hao dài, có thể lên đến hơn 20 năm, thậm chí lâu hơn. Như vậy, nếu doanh nghiệp đầu tư công trình kiên cố, mua sắm máy móc hiện đại có thời gian khấu hao càng dài thì thiệt hại càng lớn nếu gặp vướng mắc khi gia hạn giấy phép.

Người dân làm thủ tục tại cơ quan hành chính. Ảnh: Thạch Thảo

Người dân làm thủ tục tại cơ quan hành chính. Ảnh: Thạch Thảo

Không chỉ trong lĩnh vực xăng dầu, nhiều loại giấy phép khác cũng quy định về thời hạn một cách không cần thiết, có thể kể đến như bến xe khách, kinh doanh khí, sản xuất phân bón, sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất thuốc thú y, khoan nước dưới đất, dự báo khí tượng thủy văn, dịch vụ đánh giá sự phù hợp, hoạt động đo đạc bản đồ, kinh doanh sản phẩm/dịch vụ an toàn thông tin mạng, dịch vụ phát thanh - truyền hình trả tiền, dịch vụ quan trắc môi trường, dịch vụ viễn thông, đăng ký lưu hành thuốc, trò chơi điện tử trên mạng, trang thông tin điện tử, mạng xã hội…

Việc quy định thời hạn của các loại giấy phép về điều kiện đầu tư kinh doanh là không cần thiết. Nếu Nhà nước lo ngại doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện trong quá trình hoạt động thì đã có cơ chế thanh tra, kiểm tra định kỳ. Nếu doanh nghiệp vi phạm thì có thể xử phạt, tước giấy phép.

Bên cạnh đó, thử xem lại Luật Đầu tư với danh mục 227 ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Các luật chuyên ngành cụ thể hóa, mở rộng thêm từ một ngành trong danh mục Luật Đầu tư thành nhiều ngành trong luật chuyên ngành tương ứng. Vì vậy, trên thực tế, số ngành nghề kinh doanh có điều kiện lớn hơn nhiều so với danh mục của Luật Đầu tư nói trên.

Tương ứng, các luật và các nghị định hướng dẫn đặt ra hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh, mà bản chất là rào cản đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Khi còn là Viện trưởng Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, ông Nguyễn Đình Cung cho biết, có quá nhiều ngành nghề với các điều kiện kinh doanh tương ứng không rõ ràng, không cụ thể, không hợp lý, không minh bạch, không rõ mục tiêu quản lý đã gây nên tác hại hết sức to lớn đối với môi trường kinh doanh.

Rừng thủ tục như trên đã biến hiến định “doanh nghiệp tự do kinh doanh các ngành nghề không bị cấm” thành “doanh nghiệp phải kinh doanh các ngành nghề theo quy định của pháp luật”. Như vậy, doanh nghiệp về cơ bản mất quyền tự do kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhất là trong các ngành dịch vụ.

Hạn chế, thu hẹp cơ hội kinh doanh, hạn chế gia nhập thị trường, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành nghề tương ứng; qua đó hạn chế cạnh tranh thị trường, làm méo mó cơ chế phân bố và sử dụng nguồn lực.

Các giấy phép con, cháu, chắt bảo vệ nhóm doanh nghiệp hiện hữu, tạo nên nhóm lợi ích cấu kết nhau chi phối thị trường, chi phối chính sách có lợi cho mình; là một trong các nguyên nhân tạo nên tham nhũng, hối lộ; làm méo mó môi trường kinh doanh.

Điều kiện kinh doanh không rõ ràng, không cụ thể, không hợp lý, không phù hợp với cơ chế thị trường… làm cho việc tuân thủ trở nên tốn kém quá mức cần thiết, thậm chí không tuân thủ được, hoặc chỉ tuân thủ một phần, hoặc tuân thủ một cách hình thức. Điều này có nghĩa là quản lý nhà nước hoàn toàn bị vô hiệu trên thực tế.

Khi doanh nghiệp chỉ tuân thủ một phần, hoặc mang tính hình thức, hoặc không biết thế nào là đúng hay không đúng,… họ có thể gặp rủi ro kinh doanh không đúng quy định hay vi phạm pháp luật. Hoạt động kinh doanh trong các ngành nghề có điều kiện làm cho doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp luôn đối diện với rủi ro pháp lý, nhẹ thì xử phạt hành chính, nặng hơn là xử lý hình sự. Trên thực tế, không ít người quản lý doanh nghiệp và công chức thực thi liên quan đã bị kết tội hình sự do không tuân thủ đúng quy định điều kiện kinh doanh.

Doanh nghiệp phải kinh doanh theo quy định kết hợp với rủi ro lớn về pháp lý như trên đã và đang làm thui chột, thậm chí triệt tiêu động lực nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo - yếu tố không thể thiếu để doanh nghiệp duy trì năng lực cạnh tranh, mở rộng và phát triển từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn.

Than phiền với tôi, nữ doanh nhân nói, nếu doanh nghiệp không được tự đưa ra các quyết định kinh doanh của mình mà cứ phải xin phép cơ quan nhà nước, điều này sẽ khiến doanh nghiệp đánh mất sự chủ động và không thể tối ưu hóa hoạt động kinh doanh của mình.

Gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm luôn nhấn mạnh yêu cầu cần tiếp tục cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; giảm ít nhất 30% chi phí kinh doanh, đặc biệt là hải quan, chi phí tuân thủ quy định, chi phí không chính thức; bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết; phấn đấu trong vòng 2-3 năm, môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong Top 3 của ASEAN.

Về phần mình, Chính phủ cam kết tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, xác định thể chế là “đột phá của đột phá”, tạo mọi điều kiện cho người dân, doanh nghiệp gia nhập và rút lui khỏi thị trường, tiếp cận các nguồn lực sản xuất kinh doanh.

Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật theo hướng “kiến tạo phát triển”, từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”; đề cao phương pháp “quản lý theo kết quả đầu ra”; chuyển mạnh từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát.

Thực hiện nghiêm nguyên tắc người dân, doanh nghiệp được làm những gì pháp luật không cấm, tạo niềm tin, tâm lý xã hội tích cực để huy động tối đa mọi nguồn lực trong dân vào sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, để mỗi người dân đều thuận lợi khởi nghiệp, lập nghiệp khi có nhu cầu.

Hiện nay, nhiều loại giấy phép kinh doanh vẫn quy định thời hạn, làm tăng rủi ro cho các dự án đầu tư lớn, khi mà thời hạn của giấy phép thường ngắn hơn nhiều so với phương án, kế hoạch kinh doanh thông thường của dự án đó.

Mỗi lần đi xin gia hạn giấy phép, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với rủi ro không được tiếp tục kinh doanh, các tài sản đã đầu tư trở nên lãng phí…

Những rủi ro, rào cản kinh doanh đó có thể được gỡ bỏ mà không ảnh hưởng đến quản lý nhà nước trong khi tạo động lực mới cho giới doanh nhân.

Tư Giang

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/rung-giay-phep-va-loi-than-lam-kinh-doanh-khong-con-thay-niem-vui-2379626.html