Sách và văn hóa đọc
Nước Việt xưa chia người trong thiên hạ làm bốn loại, thứ tự như sau: 'Sĩ, nông, công, thương' hay: 'Sĩ, nông, công, cổ' cũng giống nhau, vì 'thương' hay 'cổ' đều chỉ nghề buôn bán, được xếp sau cùng. Sĩ tức là tầng lớp nho sĩ, có học xếp đứng đầu và đương nhiên kẻ sĩ thời phải biết đọc sách, sách ở đây là sách thánh hiền, phổ biến là tứ thư, ngũ kinh.
Người xưa đề cao vai trò của sách có khi quá mức. Họ cho rằng: “Thư trung hữu ngọc” (trong sách có ngọc), hay: “Vạn ban giai hạ phẩm/Duy hữu độc thư cao” (Mọi việc đều thấp kém/Duy chỉ có đọc sách là cao quý). Nhà bác học Lê Quý Đôn có câu: “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng/Không bằng kinh sử một vài pho”. Cổ ngữ Trung Hoa cũng nói: “Để cho con một rương vàng không bằng để cho con một cuốn sách”. Ca dao Việt xưa cũng có một câu vẽ nên khung cảnh đầy thi vị ở nông thôn Bắc Bộ: “Sáng trăng trải chiếu hai hàng/Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”. Đọc sách học được nhiều điều hay, trong đó có đạo lý thánh hiền, mở mang đầu óc và đọc sách cũng là để đi thi, đỗ đạt làm quan, đó là ước mơ của bao nhiêu người “đèn sách”. Cưới vợ chỉ là tiểu đăng khoa, thi đỗ mới là đại đăng khoa. Cho nên thời hiện đại, nhà thơ Nguyễn Bính vẫn nhắc lại trong bài thơ “Trăng sáng vườn chè”: “Tôi hằng khuyên sớm, khuyên trưa/ Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng/Một quan là sáu trăm đồng/Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi/ Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy/Hai bên có lính hầu đi dẹp đường...”.
Ngày xưa vua là cao nhất thiên hạ, là thiên tử (con trời). Vậy vua có đọc sách không và đọc như thế nào? Xin thưa dù bận trăm công nghìn việc nhưng hễ là những bậc quân vương có trách nhiệm với xã tắc thì quyết không thể xa rời sách vở. Vì đó là tri thức, là túi khôn thiên hạ. Chẳng hạn như vua Lê Thánh Tông nói về việc cần thiết phải đọc sách như sau: “Lúc rảnh sau muôn việc, trong khoảng nửa ngày, mắt xem rừng sách, lòng dạo vườn văn, không nghe huyên náo, lòng như hoa thơm, dục thần ít trong, ở yên cao hứng, bèn hăng hái nghĩ đến các bậc đế vương thánh triết, đến lòng cặn kẽ của những bề tôi trung lương, mới gọi giấy, bút, mực, nghiên đến bảo cho biết rằng: Tình của ta thư thái, khí tinh anh cuồn cuộn tuôn ra, lời khuôn mẫu từng từng lớp lớp, các ngươi có thể vì ta ghi lấy được không?”.
Vua còn cho tập hợp các vị đại khoa tên tuổi lập hội sáng tác mang tên Tao Đàn, để cùng nhau đọc sách, ngâm vịnh. Liên quan đến chuyện đọc sách, tương truyền vua Tự Đức khi đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, đến hai câu miêu tả anh hùng Từ Hải: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” thì nói nếu Tố Như còn sống chắc sẽ phạt trượng đánh đòn vì “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” là khi quân phạm thượng, coi vua cũng chẳng ra gì (?).
Cũng thời vua Tự Đức, nhà thơ, cử nhân Lê Ngô Cát đang làm quan ở biên viễn phía bắc được triệu về kinh để tham gia sửa lại bộ “Quốc sử diễn ca”. Ông tuân mệnh dốc lòng cho công việc hoàn thành. Khi vua xem bộ sử, đọc thấy bốn câu về Bà Triệu của ông Lê Ngô Cát: “Vú dài ba thước dắt lưng/Cưỡi voi đánh trống trong rừng kéo ra/Cũng toan gánh vác sơn hà/Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam”, vua thích thú và sửa “cũng toan” thành “ghé vai” rồi bảo: “Vậy đàn ông nước Nam đi đâu cả?”. Vua thưởng cho ông Lê Ngô Cát tấm lụa và hai đồng tiền vàng. Bạn hữu biết tin chúc mừng nhà thơ. Ông bèn cao hứng đọc hai câu thơ nửa đùa nửa thật: “Vua khen thằng Cát có tài/Ban cho cái khố với hai đồng tiền”. Việc đến tai Tự Đức, vua cho rằng ông chê vua keo kiệt nên lại cho ông ra làm tiếp Bố chánh tỉnh Cao Bằng, nơi ông từng tòng sự với chức quan này trước khi được triệu về kinh sửa “Quốc sử diễn ca”, trong lúc lẽ ra ông phải được làm quan ở chỗ khác.
Ngày xưa số người biết chữ và đọc sách không nhiều nên văn hóa đọc như cách nói thời nay không lan tỏa như trong thời hiện đại nhưng nhiều tác phẩm vẫn ăn sâu vào ký ức và đời sống dân gian, ví như Truyện Kiều của Nguyễn Du ở nước ta, nhất là với xứ Nghệ. Đáng nói trong sinh hoạt văn nghệ dân gian, tầng lớp bình dân đọc Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều và còn cả bói Kiều, một hiện tượng chưa từng có trên thế giới và có lẽ chỉ tồn tại với Truyện Kiều mà thôi.
Muốn kiểm tra người khác đọc Kiều có kỹ không và phản ứng có nhanh nhẹn, linh hoạt không thì người ta hay đố Kiều, đây là một trò chơi văn chương đặc sắc, cả câu hỏi lẫn đáp án đều lấy từ Truyện Kiều, có khi nguyên văn, có khi tổ hợp từ nhiều câu Kiều khác nhau. Ví dụ hỏi đáp nguyên văn như: “Truyện Kiều anh đã thuộc lòng/Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?”, đáp: “Dưới cầu nước chảy trong veo/Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”; hoặc đố khó hơn: “Truyện Kiều anh đã thuộc làu/Đố anh nói được một câu năm người?”, đáp: “Này chồng, này mẹ, này cha/ Này là em ruột, này là em dâu”, hỏi: “Truyện Kiều anh đã thuộc lòng/Đố anh kể được một dòng chữ nho?”, đáp: “Hồ công quyết chí thừa cơ/Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công”.
Đọc sách quá nhiều lợi ích tưởng không có gì đáng lưu ý, đọc và chỉ đọc mà thôi. Nhưng không, người xưa cũng sâu sắc và tinh tế lắm. Mạnh Tử có khuyên: “Tận tín thư bất như vô thư” (tin hết ở sách thì thà đừng đọc sách còn hơn). Một câu nói thoạt nghe có vẻ nghịch lý, trái chiều song ngẫm lại thấy rất bổ ích. Sách đúng là “túi khôn”, là tinh hoa văn hóa nhưng những cuốn sách cụ thể cũng có những giới hạn của nó, chưa kể những sai sót mà có tác giả vô tình hay hữu ý để xảy ra. Nên phải đọc sách bằng một tinh thần kế thừa và phê phán, biết gạn đục khơi trong, biết so sánh, đối chiếu, biết suy luận và chiêm nghiệm mới đúng thực sự là người biết đọc sách, để trở thành người đọc sách chuyên nghiệp. Thứ hai, như người phương Đông có câu: “Đa thư loạn tâm” để ngăn ngừa chứng bệnh “ngộ chữ” của người đọc quá nhiều sách, nhất là những sách khó hiểu mà không tiêu hóa, khâu tiếp nhận có nhiều vướng mắc gây ra những sự cố tâm thần, hay ít ra cũng tâm trí bất an, rối loạn.
Xem vậy, mới biết nhiều khi đọc sách cũng không phải là chuyện giản đơn.