Sau trận mưa kéo dài, mực nước tại các hồ thủy điện hiện thế nào?
Theo báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương), lưu lượng nước hồ thủy điện khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ ngày 14/6 tăng nhẹ so với ngày 13/6.
Ngày 14/6, lưu lượng về các hồ chứa khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ tăng nhẹ, trong khi đó, khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ dao động nhẹ. Lưu lượng ở một số lưu vực sông, suối nhỏ khu vực Bắc Bộ các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang tăng nhanh.
Mực nước hồ chứa thủy điện khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ tăng nhẹ, vẫn ở mực nước thấp; khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên mực nước các hồ dao động nhẹ so với ngày hôm qua, mực nước nằm trong phạm vi mực nước tối thiểu theo quy định của quy trình vận hành.
Lượng nước về hồ chủ yếu để điều tiết nước đảm bảo dòng chảy tối thiểu, các nhà máy thủy điện vận hành phát điện bằng lưu lượng nước về, các nhà máy khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ phát điện cầm chừng với cột nước, công suất thấp để đảm bảo an toàn cho tổ máy khi vận hành, khó có thể đáp ứng đươc việc phát điện theo quy trình vận hành hồ chứa tại thời kỳ này.
Một số hồ xấp xỉ mực nước chết gồm Sơn La, Thác Bà, Bản Chát, Bản Vẽ, Hủa Na, Thác Mơ. Một số thủy điện phát điện cầm chừng với cột nước, công suất thấp gồm Sơn La, Lai Châu, Huội Quảng, Bản Chát, Thác Bà, Tuyên Quang, Hủa Na, Trung Sơn, Thác Mơ.
Dự báo tình hình thủy văn, lưu lượng nước về hồ 24 giờ tiếp tục tăng nhẹ; mực nước các hồ khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ tăng chậm, ở mức thấp.
Cụ thể, tại Bắc Bộ, hồ Thác Bà xấp xỉ mực nước chết (mực nước hồ/mực nước chết: 45,91m/46m), hồ Lai Châu: 272,83m/265m, hồ Sơn La: 176,72m/175m, hồ Hòa Bình: 102,75m/80m (quy định mực nước tối thiểu là 81,9m), hồ Tuyên Quang: 93,11m/90m (quy định tối thiểu: 90,7m), hồ Bản Chát: 432,78m/431m.
Tại khu vực Bắc Trung Bộ, hồ Trung Sơn: 152,56m/150m (quy định tối thiểu: 150,7m), hồ Bản Vẽ: 156,58m/155m (quy định tối thiểu: 169,7m đến 174m), hồ Hủa Na: 217,33m/215m (quy định tối thiểu: 219,5m), hồ Bình Điền: 66,35m/53m (quy định tối thiểu: 65,8m đến 67,9m), hồ Hương Điền: 50,37m/46m (quy định tối thiểu: 49,1m đến 50,4m).
Tại khu vực Đông Nam Bộ, mực nước các hồ đã vượt mực nước chết, dao động nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết): hồ Thác Mơ: 199.76/198 m (qui định tối thiểu: 202.5m đến 203.2m); hồ Trị An: 53.41/50 m (qui định tối thiểu: 51.6m đến 52m).
Tại khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, mực nước các hồ ở mực nước tối thiểu theo quy định của Quy trình vận hành, giảm nhẹ so với ngày hôm qua: hồ A Vương (MN hồ/ MNC): 363.34/340 (qui định tối thiểu: 358.5 đến 360.8m); hồ Đăkđrink: 401.9/375 (qui định tối thiểu: 395.1m đến 396.7m); hồ Sông Bung 4: 218.41/205 m (qui định tối thiểu: 213.5m đến 215.2m); hồ Sông Tranh 2: 158.95/140m (qui định tối thiểu: 156.3 m đến 157.4m); hồ Sông Ba Hạ: 102.91/101 m (qui định tối thiểu: 102.4m đến 103.2 m); hồ Sông Hinh: 204.61/196 m (qui định tối thiểu: 203m đến 203.7m).
Tại khu vực Tây Nguyên, mực nước các hồ giảm nhẹ so với ngày hôm qua: hồ Buôn Kuốp: 410.21/409 m; Hồ Buôn Tua Srah: 470.35/465 m (qui định tối thiểu: 467.5m đến 470.4m); hồ Đại Ninh: 865.20/860m (qui định tối thiểu: 862.4m đến 864m); hồ Hàm Thuận: 583.17/575m (qui định tối thiểu: 578.8m đến 580.7m); hồ Đồng Nai 3: 571.61/570 m (qui định tối thiểu: 571.5m đến 572.8m); hồ Ialy: 503.23/490 m (qui định tối thiểu: 491.5m); hồ Pleikrông: 549.02/537m (qui định tối thiểu: 543.3m); hồ Sê San 4: 211.45/210m (qui định tối thiểu: 210.3m); hồ Thượng Kon Tum: 1147.47/1138 m (qui định tối thiểu: 1140.2m).