Sẽ có tiêu chí thu nhập mới với chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030

Trong dự thảo Nghị định quy định chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030. , Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất tiêu chí thu nhập trong chuẩn nghèo đa chiều quốc gia với khu vực đô thị là 2,8 triệu đồng/người/tháng, khu vực nông thôn là 2,2 triệu đồng/người/tháng.

Nông dân trồng cà-phê ở Tây Nguyên. (Ảnh PHÚC THẮNG)

Nông dân trồng cà-phê ở Tây Nguyên. (Ảnh PHÚC THẮNG)

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng dự thảo Nghị định quy định chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 (sau đây gọi tắt là dự thảo Nghị định).

Cần thiết ban hành chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030

Nhấn mạnh về sự cần thiết ban hành Nghị định này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị của Ban Bí thư yêu cầu ban hành chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030, chuẩn nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân.

Về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025, tiêu chí về thu nhập bằng mức sống tối thiểu năm 2020 nên đến nay chỉ bằng khoảng 80% mức sống tối thiểu năm 2025, và dự kiến bằng khoảng 66% so mức sống tối thiểu năm 2030. Chuẩn này cũng chưa có chiều tiếp cận về môi trường.

Về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025, tiêu chí về thu nhập bằng mức sống tối thiểu năm 2020 nên đến nay chỉ bằng khoảng 80% mức sống tối thiểu năm 2025, và dự kiến bằng khoảng 66% so mức sống tối thiểu năm 2030.

Hơn nữa, chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 là cơ sở rà soát, xác định tỷ lệ nghèo đa chiều làm căn cứ thực hiện mục tiêu giảm nghèo tại Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, thực hiện các chính sách giảm nghèo, đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2030.

Do vậy, việc ban hành Nghị định quy định chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 rất cần thiết.

Nâng tiêu chí thu nhập trong chuẩn nghèo đa chiều quốc gia

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong dự thảo Nghị định, chuẩn nghèo đa chiều quy định giai đoạn 2026-2030 có một số nội dung đáng quan tâm sau.

 Phụ nữ tham gia dự án “Tôi vui gieo” của CARE Việt Nam đẩy các thực hành nông nghiệp bền vững, nâng cao năng suất và hỗ trợ sinh kế. (Ảnh: CARE )

Phụ nữ tham gia dự án “Tôi vui gieo” của CARE Việt Nam đẩy các thực hành nông nghiệp bền vững, nâng cao năng suất và hỗ trợ sinh kế. (Ảnh: CARE )

Thứ nhất, chuẩn nghèo nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 gồm nhiều tiêu chí. Đó là: tiêu chí thu nhập (ở khu vực nông thôn: 2,2 triệu đồng/người/tháng; ở khu vực đô thị: 2,8 triệu đồng /người/tháng) và tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản gồm 6 chiều, 12 chỉ số: việc làm (việc làm; người phụ thuộc trong hộ gia đình); giáo dục (trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em); y tế (dinh dưỡng; bảo hiểm y tế); nhà ở (diện tích nhà ở bình quân đầu người, chất lượng nhà ở); thông tin (sử dụng dịch vụ viễn thông); nước sinh hoạt, vệ sinh và môi trường (nguồn nước sinh hoạt; nhà tiêu (công trình phụ) hợp vệ sinh; xử lý rác thải).

Thứ hai, về tiêu chí thu nhập, Nghị quyết số 42-NQ/TW và Chỉ thị số 05-CT/TW yêu cầu: Chuẩn nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân.

Theo Khảo sát mức sống dân cư kỳ 1 năm 2025 của Bộ Tài chính (khảo sát cuối năm 2024), mức sống tối thiểu khu vực đô thị là 2,485 triệu đồng/người/tháng, khu vực nông thôn là 1,87 triệu đồng/người/tháng.

Dự kiến, từ nay đến năm 2030, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 3,5%/năm. Để bảo đảm các hộ gia đình thoát nghèo từ năm 2030 trở đi không sống dưới mức sống tối thiểu, chuẩn nghèo bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần, tiêu chí thu nhập trong chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 cần bảo đảm ở mức sau: Khu vực đô thị là 3 triệu đồng/người/tháng, khu vực nông thôn là 2.3 triệu đồng/người/tháng, tăng 1,5 lần (ở khu vực đô thị) và 1,53 lần (ở khu vực nông thôn) so với chuẩn nghèo giai đoạn 2022-2025. Mức tăng trên thấp hơn mức tăng GDP bình quân đầu người năm 2022 so với năm 2030 (tăng 2,2 lần = 8.500 USD/3.760 USD).

Tuy nhiên, để bảo đảm tránh phát sinh số hộ nghèo, hộ cận nghèo giai đoạn 2026-2030 lớn và khả năng ngân sách nhà nước để thực hiện chính sách đối với người nghèo giai đoạn 2026-2030, từng bước thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị tiêu chí thu nhập trong chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 tương đương với mức sống tối thiểu năm 2028 như sau: Khu vực đô thị là 2,8 triệu đồng/người/tháng; khu vực nông thôn là 2,2 triệu đồng/người/tháng.

Gỡ những vướng mắc

 Hoạt động hỗ trợ trẻ em ở địa bàn khó khăn của tỉnh Hà Giang (cũ) của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam.

Hoạt động hỗ trợ trẻ em ở địa bàn khó khăn của tỉnh Hà Giang (cũ) của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam.

Theo cơ quan biên soạn dự thảo Nghị định, còn một số vấn đề vướng mắc cần xin ý kiến chỉ đạo.

Theo dự kiến chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 nêu trên, năm 2026, tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước là 11,7%, tương ứng với khoảng 3,297 triệu hộ, tăng khoảng 904 nghìn hộ so với đầu kỳ giai đoạn 2022-2025 (năm 2022).

Theo Bộ Tài chính, tổng kinh phí dự kiến phát sinh năm 2026 thực hiện 7 chính sách an sinh xã hội trung ương ban hành đối với các đối tượng thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mới là 39 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 24 nghìn tỷ đồng so với số liệu thực hiện các chính sách an sinh xã hội nghèo hiện hành năm 2025. Các chính sách đó bao gồm:

(1) Chính sách trợ giúp xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP là 9,85 nghìn tỷ đồng;

(2) Hỗ trợ tiền điện hộ nghèo là 2,23 nghìn tỷ đồng;

(3) Miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP là 3,63 nghìn tỷ đồng;

(4) Hỗ trợ tiền ăn trưa, hỗ trợ nấu ăn cho trẻ em mẫu giáo thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo theo Nghị định số 105/2020/NĐ-CP là 0,9 nghìn tỷ đồng;

(5) Chính sách về giáo dục đối với người khuyết tật theo Nghị định số 53/2015/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC là 3,86 nghìn tỷ đồng;

(6) Hỗ trợ giáo dục địa bàn đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 66/2025/NĐ-CP là 9,25 nghìn tỷ đồng;

(7) Hỗ trợ người nghèo bảo hiểm y tế là 9,35 nghìn tỷ đồng.

Về vấn đề này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường thống nhất với dự kiến kinh phí cho 5 chính sách. Còn 2 chính sách, Bộ Nông nghiệp và Môi trường có ý kiến như sau:

Về kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ giáo dục theo Nghị định số 66/2025/NĐ-Chính phủ, đây là chính sách mới. Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2024 do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (trước đây) công bố, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm 22,36%. Do vậy, nhiều đối tượng thụ hưởng chính sách không thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo. Cụ thể như:

Nhóm thứ nhất: Trẻ em thường trú tại xã, thôn đặc biệt khó khăn; học sinh, học sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở mà bản thân và bố hoặc mẹ hoặc người giám hộ thường trú tại xã, thôn đặc biệt khó khăn; học sinh trung học phổ thông đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông mà bản thân và bố hoặc mẹ hoặc người giám hộ thường trú tại xã, thôn đặc biệt khó khăn.

Nhóm thứ hai: Các đối tượng trẻ em, học sinh là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo sống ở xã khu vực I, khu vực II và đáp ứng một số điều kiện về khoảng cách địa lý mới được hưởng chính sách. Do vậy, kinh phí phát sinh để thực hiện cho đối tượng thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc Nghị định số 66/2025/NĐ-CP khoảng 4,65 nghìn tỷ đồng, thấp hơn so với tính toán của Bộ Tài chính.

Về kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ mua bảo hiểm y tế, theo điều tra dân số (năm 2019, cả nước có 96,2 triệu người và có 28,1 triệu hộ) và kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo giai đoạn 2022-2025, quy mô hộ nghèo, hộ cận nghèo là 3,4 người/hộ. Theo Luật Bảo hiểm y tế, trẻ em dưới 6 tuổi, người cao tuổi trên 75 tuổi được hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế. Do vậy, nhu cầu kinh phí để hỗ trợ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2026 theo chuẩn nghèo đa chiều khoảng 5,02 nghìn tỷ đồng, thấp hơn so với dự tính của Bộ Tài chính.

Do vậy, trường hợp áp dụng chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 như trên, kinh phí thực hiện chính sách đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2026 khoảng 30 nghìn tỷ đồng, tăng 15 nghìn tỷ đồng so với năm 2025. Trong giai đoạn 2026-2030 trung bình khoảng 23 nghìn tỷ đồng/năm, tăng khoảng 4.000 tỷ đồng/năm so với giai đoạn 2021-2025 (19 nghìn tỷ đồng/năm), chủ yếu do thực hiện chính sách mới theo Nghị định số 66/2025/NĐ-CP.

PV

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/se-co-tieu-chi-thu-nhap-moi-voi-chuan-ngheo-da-chieu-quoc-gia-giai-doan-2026-2030-post908169.html